ếu ai đó cho rằng, thơ là tiếng lòng, là tiếng nói tri âm của thời gian quá khứ, là ký ức của những ngày đã qua thì điều đó đã đúng với những gì Nguyễn Xuân Thái viết trong tập thơ Tôi và bây giờ (*) của mình. Lao động văn thơ thường là lao động quá khứ. Những cái thoáng qua, những cái đọng lại, những cái đi mãi vẫn luôn là niềm day dứt của thi ca, của người cầm bút làm thơ. Đó chính là tiếng lòng còn thổn thức khôn nguôi. Hãy lắng nghe tiếng lòng của nhà thơ thao thức về ký ức một thời áo lính:
"Cỏ xuân xanh vẫn vậy thôi
Tôi ngồi uống với mây trời phía xa…" (Heo may)
"Mây trời phía xa" ấy chính là những đêm tuần tra, những ngày truy theo dấu chân biệt kích năm nào của người lính Nguyễn Xuân Thái, nó vẫn là niềm trăn trở, là những nỗi nhớ về đồng đội. Trong cuộc sống thường nhật dẫu còn những nhọc nhằn vất vả nhưng Nguyễn Xuân Thái vẫn thao thức nhớ về ánh lửa rừng hôm nào. Và cũng chính bên bếp lửa rừng ấy, Nguyễn Xuân Thái lại nhớ về bếp lửa rừng một thủa, "Ngày củ sắn bẻ đôi vừa thổi vừa ăn" trên đường truy tìm biệt kích. Cái ngày "Hương sắn bay đi kỷ niệm còn đọng lại" đã có những khuôn mặt bạn bè đồng đội vắng sau trận đánh. Chỉ hương sắn thôi, chút hương của rừng của núi, của đất đai cũng gợi cho anh một nỗi nhớ diết da về những người đồng đội. Nếu ai đã từng phải bế đồng đội hy sinh sau mỗi trận đánh thì mới hiểu cái đau, cái nhớ thương, cái mất mát lớn biết nhường nào. Trong cuộc sống, khi con người gắn bó với nhau trong vất vả, gian nan, gắn bó với nhau trong hoạn nạn, gian khó thì khi phải chứng kiến những mất mát ấy nỗi day dứt, niềm trăn trở luôn là điều mà con người hướng đến. Tôi tin rằng, đó chính là nỗi đau hơn mọi nỗi đau, là nỗi buồn hơn mọi nỗi buồn. Với Nguyễn Xuân Thái, cuộc đời có gần bốn mươi năm quân ngũ và cũng bằng ấy thời gian gắn bó với dải biên cương, nơi mà đêm đêm đi trong ánh pháo sáng, ngày ngày sống trong địa đạo một thời lửa đạn Vĩnh Linh, bước chân tuần tra vẹt mòn đá núi, áo đẫm sương rừng. Cũng chính từ những năm tháng ấy, năm tháng của bao khó khăn gian khổ đã cho anh những cảm nhận sâu sắc về lẽ sống của người lính biên phòng như thế.
Người đời vẫn thường nói rằng, thức lâu mới biết đêm dài, nhưng với những người cầm bút, chỉ một chớp nhoáng, một thoáng qua thôi cũng đủ để mang dấu ấn một đời, đủ để hiểu về đêm dài. Đêm dài của Nguyễn Xuân Thái là nỗi nhớ về đồng đội, những người chia lửa một thời, những đêm phục kích trăn trườn, đường tuần tra vắt đuổi, những con đường sương giá phủ mờ lối đi. Đó là những đêm:
"…Trận đánh nào nghiêng ngả cây rừng
Đỉnh hai ngàn đá khắc ghi chiến tích
Đất xoá sổ những tên biệt kích…" (Bếp lửa rừng)
Trong cuộc sống, khi con người nói đến điều gì đó cũng thường chỉ ra một cách cụ thể. Trong cái thời cơ chế thị trường thì cái cụ thể ấy nó còn được thể hiện một cách cụ thể đến mức mà ta có thể nắm được, cầm được, sự cụ thể đến mức không thể cụ thể hơn. Với người lính biên phòng, với người lính thơ Nguyễn Xuân Thái thì cái cụ thể ấy là những điều mà người thường khó có thể cảm nhận được. Tổ quốc trong họ là sự vời vợi của "Những nét gạch nối trên bản đồ/ Từng tấc đất gốc cây trên thực địa/ Và đường thẳng đứng không gian". Cũng chính vì cái vời vợi ấy mà để nhận ra đất đai Tổ quốc họ phải nhận "bằng tim", "bằng linh cảm thiêng liêng", "bằng dòng chảy thời gian dồn tụ", hay nói cách khác chính là bằng cả chiều dài lịch sử của dân tộc. Chiều dài của những tháng năm cha ông gìn giữ để bảo vệ và dựng xây.
Rất nhiều người có quan niệm, thời gian sẽ là liều thuốc làm lành những nỗi đau, làm dịu vợi nỗi buồn, xoa dịu những mất mát của cuộc đời. Thời gian trong thơ Nguyễn Xuân Thái chính là nỗi lòng mình. Thời gian ở đây hư mà thực, ảo đấy mà thật đấy, gần đấy mà xa đấy, thời gian ấy để nhà thơ "cắm con sào ký ức xuống thời gian", cắm vào lòng người những kỷ niệm của thời gian, của những gì đã trải nghiệm, và những điều mà con người tưởng có thể vùi đi những đớn đau cuộc đời đã trải. Đó chính là những đau đớn không thốt thành lời, là những trăn trở, dằn vặt mà Nguyễn Xuân Thái canh cánh trong lòng. Nỗi đau của sự chiêm nghiệm rút thành thơ.
"…Mười năm vùi xa xót trong tim
Giờ gặp lại hoa díu dan đầy tóc
Biết không thể tìm lại gì đã mất…" (Mùa hoa sấu này)
Hoặc:
"…Hai mươi năm giấu ký ức nơi em
Giờ Vũng Tàu trả về tôi sấm chớp
Cơn mưa xối hạt đau xuống tóc
Giọt trăng buồn tưới buốt đôi môi!" (Ký ức Vũng Tàu)
Đây phải chăng chính là tiếng lòng của người thơ, của nỗi đau mà thời gian đã tưởng như khoả lấp trong ký ức. Năm tháng qua đi, ta đã tưởng chừng như những nỗi đau kia đã được thời gian làm cho quên lãng, nhưng thực ra là không, nó chỉ làm cho nỗi đau thêm đau, nỗi nhớ thêm đầy, nỗi buồn thêm nặng vì thời gian qua đi để chỉ còn lại "một mình gom nhặt".
Ấn tượng và để lại sâu đậm nhất trong "Tôi và bây giờ" có lẽ là hình ảnh người lính biên phòng. Gần 40 năm cầm súng và cầm bút cũng bằng ấy năm Nguyễn Xuân Thái là người lính biên phòng. Nếu ai đó có nói, trong các nhà thơ cầm bút viết về biên phòng không ai có thể hiểu biên phòng hơn Nguyễn Xuân Thái chắc không sai. Nếu không là người lính biên phòng liệu có ai biết được, con đường người lính biên phòng ngày ngày đi qua như thế này:
"…Lối mòn lọt bước chân
Vừa vượt suối gặp thác
Bên đường nhung nhúc sên…"
Rồi: "…Dốc Đá Bằng ngựa ngã
Dốc Cây Dẻ chênh vênh
Một bên vách đá dựng
Một bên vực hút nhìn…" (Đường vào Na Nhạp)
Bằng lối viết tả thực, Nguyễn Xuân Thái đưa người đọc cảm nhận được một cách đầy đủ nhất về biên giới. Giữa những nét hùng vĩ của núi rừng, những nẻo đường biên cương cũng còn rất nguyên sơ và ẩn chứa biết bao nguy hiểm. Nguyên sơ là thế, nguy hiểm là thế, gian nan là thế nhưng người lính vẫn vô tư, vẫn dành tất cả cuộc đời mình cho dải đất biên cương mà không hề so đo tính toán. Sự hy sinh ấy cứ như vốn có sẵn trong trái tim của mỗi người lính.
"…Bạn như giọt nắng ban mai
Mà thành cổ tích thành cây giữa đời…" (Heo may)
Thơ Nguyễn Xuân Thái không ồn ào, không "làm mình làm mẩy" như bão, như gió của một số người viết trẻ, không làm dáng theo kiểu "ưa lối trừu tượng", không "sồn sồn, ào ào" như những người đang sung mãn. Thơ Nguyễn Xuân Thái cứ lặng lẽ, âm thầm như dòng sông kia một đời bồi đắp phù sa, một đời nhận về mình bên lở. Sự lắng lại qua những gian truân của người lính, những vất vả của con người đã thấm vào trong hồn thơ của anh. Đấy phải là những chiêm nghiệm qua bao đêm dài mới có được. Những chiêm nghiệm ấy được rút ra từ thủa tóc xanh cho đến khi: "Bây giờ tóc đã heo may/ Khát khao đã cạn hao gầy bước đi/ Bây giờ cất giấu nghĩ suy/ Quá khứ xoáy cuộn mỗi khi gặp buồn". Một ký ức thật dài và một thời gian thật dài cho một đời người.
Cái hay cũng từ đấy, cái sâu sắc cũng từ đấy và cái tình cũng là đấy.
Mặc dù Nguyễn Xuân Thái đặt tên cho tập thơ của anh là Tôi và bây giờ, nhưng cái tôi trong quá khứ, tôi trong bây giờ, nghĩa là tôi xa xưa và tôi hiện tại luôn bên nhau tạo nên tiếng nói chung, sự đồng điệu, tiếng nói của thơ, tiếng nói của niềm trăn trở về quá khứ, nơi biên giới xa xôi của Tổ quốc. Những trăn trở và nỗi nhớ về quá khứ đằm trong ký ức được nhà thơ gửi gắm cụ thể hoá vào thơ.
"…Cỏ xuân xanh mãi. Vậy thôi
Sau lưng tôi vẫn góc trời heo may." (Heo may)
"Góc trời heo may" ấy có đồng đội của anh, một góc trời nơi biên giới xa xôi của Tổ quốc. Có thể nói, Tôi và bây giờ là tập thơ nói hộ người lính và của người lính quân hàm xanh. Và đó cũng là ký ức của cả đời lính biên phòng- Đại tá, nhà thơ Nguyễn Xuân Thái.
_________________________________________________________________________
(*) Tôi và Bây Giờ - Thơ Nguyễn Xuân Thái - Nhà xuất bản Công An Nhân Dân.