TÁC GIẢ
TÁC PHẨM







. Tên thật : Trần Thị Thu Vân .
. Chào đời tại Huế, lớn lên tại Sài Gòn.
. Trước 1975 sinh sống tại Đà Lạt.
. Hiện đang ở San José, Californie, USA.

TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN

. Nước Chảy Qua Cầu (Bút Ký)
. Gã Cùi và Miếng Dừa Non (tập truyện)
. Một Truyên Dài Không Có Tên (I, II - tâm bút)
. Nhật Nguyệt Buồn Như Nhau (I, II -tự truyện)
. Tài Hoa Mệnh Bạc (I, II, III, biên khảo tiểu sử danh nhân)
. Trần Sa (tự truyện)
. Tài Hoa và Cô Đơn Như Một Định Mênh (tuyển tập tâm bút)
. Con Tằm Đến Thác Vẫn Còn Vương Tơ (tuyển tập tâm bút)
. Điệu Múa Cuối Cùng Của Con Thiên Nga (I, II, tuyển tập tâm bút)
. River of Time (bản Anh ngữ của Nước Chảy Qua Cầu, Trần Thy Hà chuyển dịch)














Tranh của cố họa sĩ Tạ Tỵ






(Trích "NƯỚC CHẢY QUA CẦU" )


Nếu còn đi hoài, biết đi về đâu?





"Bút ký NCQC của Trần Thị Bông Giấy đã từng được một NXB tên tuổi ở Tp Hồ Chí Minh đề nghị mua bản quyền in ấn. Dù sự việc không thành nhưng tác giả vẫn giữ nguyên bản đã được NXB này lược duyệt khi cho phép ban biên tập đăng tải trên Newvietart."




TỰA

Từ những ngày tháng mà cuốn bút ký Nước Chảy Qua Cầu chưa có tên gọi và còn là bao mẩu tâm sự, bao suy nghĩ, cảm xúc trùng trùng của kỷ niệm được ghi nhận lại bởi từng mảng thời gian bềnh bồng trôi giạt, tôi đã đắm chìm trong một không khí huyền hoặc, mê say và cảm động qua lời kể của Trần Thị Bông Giấy về đoạn đời năm năm phiêu bạt của nàng trong tư thế một nghệ sĩ vĩ cầm của một đoàn Cải Lương lưu diễn đó đây trên khắp quê hương, từ sau tháng 11/1975.

Tất cả những điều được kể hoàn toàn là chuyện thật, tại sao lại tạo ra được cái không khí huyền hoặc mê đắm đó? Đất nước Việt Nam sau cuộc chiến tranh dài, tình trạng hỗn mang dâu biển bủa lên mọi cảnh đời. Nhưng trong mắt nhìn từ một tâm hồn mong manh mà hùng tráng của người nghệ sĩ, và xuyên qua những hỗn mang dâu biển đó, Trần Thị Bông Giấy đã nhận ra một thứ hạnh phúc thật kỳ dị: “Ly cà-phê sáng ở một thị xã buồn tênh xa lạ như là một miền cuối cùng của trái đất. Những bữa rượu nửa đêm về sáng sau giờ trình diễn với các người bạn nhạc sĩ khác trong đoàn. Bà cụ già bất hạnh bê từng hũ rượu đi bán dạo. Phiên chợ âm hồn bắt đầu họp vào lúc nửa đêm nơi một làng quê Việt Nam. Người bạn cũ gặp lại trong một thị trấn buồn tênh xa lạ. Người đàn ông ngồi uống rượu một mình trong không gian mờ ảo của chiếc quán khuya, bối cảnh thời đại như nhuộm lên thân hình ông sự cô đơn khốc liệt của một kiếm khách trên đường gió bụi...”

Mỗi mẩu chuyện là một viên ngọc đối với Trần Thị Bông Giấy. Gom tất cả những viên ngọc đó lại, Trần Thị Bông Giấy làm thành xâu chuỗi ngọc khác thường cho chính mình. Bởi đó, khởi đi từ những tâm sự được kể, những kỷ niệm nuối tiếc được nâng niu, tôi đã đề nghị Trần Thị Bông Giấy viết lại thành một quyển sách, một quyển bút ký. Biết đâu lại chẳng có người cũng muốn được chia xẻ với tác giả những hình ảnh, những mẩu chuyện tuy rằng đã có sẵn, luôn hằng hằng rải rác trên khắp cùng sông nước Việt Nam, nhưng cho dù đã sinh ra và lớn lên ngay trên quê hương mình, chắc hẳn trong chúng ta mấy ai đã được nghe, được thấy? Nhất là nghe, thấy từ vị trí một người nghệ sĩ phiêu bạt từ sau cuộc biến động lớn của quê hương?

Thời gian trôi đi. Đời người trôi theo dòng thời gian để mà lạc loài đến những không gian cũng biến động trong từng giây từng phút. Tương quan giữa con người với con người, giữa con người với thời gian và không gian thật là chặt chẽ. Đó là sự cùng trôi đi và mất tăm. Như nước chảy qua cầu. Tôi nghĩ, viết quyển bút ký này, Trần Thị Bông Giấy trước hết muốn giữ cho chính nàng, muốn làm không gian và thời gian ngưng đọng lại, để trong không gian và thời gian đó vẫn còn nguyên những người, những cảnh, những chuyện của kỷ niệm hiện tại và của cả một đời. Vì thế, văn chương không phải là mục tiêu khởi đầu của Nước Chảy Qua Cầu, của Trần Thị Bông Giấy. Văn chương chỉ tự nó thành tựu ở lúc tâm sự, kỷ niệm được tác giả viết xuống thành chữ, thành câu, sau khi đã là những chuyện kể. Những chuyện kể bềnh bồng trôi giạt...

Trần Nghi Hoàng

4 giờ sáng ngày 12 tháng 8 năm 1989

INTRODUCTION

The United States has gone through many stages in its attempt to come to terms with the legacy of the Việt-Nam War. In the immediate aftermath of the war, there was disbelief, anger, fingerpointing and grief. Then, for a while, there was silence. The pain of confrontation was repressed, delayed --but it could not be eliminated.

In order for healing to take place, we had to begin the processes of both individual soul-searching and a collective national conversation on Việt-Nam.

First in a trickle, then a torrent, writers and filmakers began to struggle with the issue of the war. Particularly through the medium of film, the issue was once again raised in public consciousness. The silence was replaced by dark, often wrenching films, The Deer Hunter, Coming Home, Platoon, Full Metal Jacket, each in their own way trying to struggle with the meaning of the war and its aftermath. For the most part, however, the pens and the cameras have belonged to Americans. We have never really heard the stories, the poems, and the cries of the Vietnamese people. As great a physical and psychic toll as the war took on the United States, the suffering of the Vietnamese was immeasurably greater. Its land, the precious earth from which the Vietnamese draw food and strength, is still pock-marked with craters, filled with mines and slowly recovering from the assault of poisons. Over a million people, many of them noncombatants, were killed. Prosthetic limbs are a common sight. And yet we have not really heard the people of Việt-Nam speak.

There is still another problem. To most Americans, "Việt-Nam" means "The Việt-Nam War". Because Việt-Nam has always been an object to us, a painful part of our story, its relevance is usually seen in terms of the twenty years of violence and mutual distrust that marked the relationship from the 1950's to the 1970's.

However, even if we see Việt-Nam simply in terms of war, we must realize that the Việt-Nam war was a war that extends back to the 50 years struggle with the French that began in the mid-19th century, and still further back to Việt-Nam's ongoing attempt to preserve its own identify in the face of a Chinese influence that was, by turns, philosophical, political, cultural and often military. In the words of one scholar, it has been a "2,000 year struggle".

Although war has had an enormous impact on Việt-Nam, Việt-Nam is much more than a battleground, a fact that many Americans are only beginning to discover. It is a country with a history of its own, a culture that has produced beautiful poetry and literature, and as we learn from the author, a musician able to bring notes to life through written words, rich traditions of music and opera.

Việt-Nam is also land, rice paddies and bustling cities, farmland and villages. And most of all, it is its people. People who are both in Việt-Nam rebuilding their country and their lives; and people who are scattered across the globe feeling, in varying degrees, either like citizens of new lands or an exiled people still waiting to return home. In order to understand, we must begin listening to their voices. Trần Thị Bông-Giấy's is a beautiful voice with which to begin this journey. Her perspective is shaped by time spent in three places, three cultures intertwined in a tragic story, now struggling to find reconciliation, Việt-Nam, France and the United States. Trần Thị Bông Giấy is an author who doesn't spend much time on explicit political statements, diatribes, arguments or theory. She is very much a writer of the particular and concrete, not the general and abstract.

Here is an intimate journal of meals shared and concerts remembered, of conversations, images, personal encounters --open this journal and both Việt-Nam and France come to you in all of their sights, sounds, textures and smells. She brings to us numerous people whose lives have been shaped, in many different ways, by the conflict. We see connections being made across cultural boundaries just as we see the divisions that still exist within them --Vietnamese, like Americans, still split passionately over the war. Her diary is filled with stories and characters that stay with the reader long after the book is put away.

The author's experience of Việt-Nam is particularly revealing, for she is describing the world she was away from for years and then returned to. There is an extra vividness that comes out of seeing one's old home with new eyes --it makes the experience both richer and more painful. But there are really two journals here --for she not only shows us Việt-Nam through the eyes of one who has returned, she also gives to us the experience of a Vietnamese making a life in Europe.

The author's personality shines through in the book. She is a fiercely proud and deeply sensitive woman; she is a person of tradition facing a world of change and uncertainty. Above all, she is an artist, and her words can be so lyrical that the line between prose and poetry begins to disappear.

In conversation, as in music, it is often the quiet but strong voice that holds one's attention. Trần Thị Bông Giấy's is such a voice. Slowly, through a moving story or memorable character here, a reflection on a poem or thoughts about an opera there, the motifs are woven; the piece comes together as a whole. The effect builds up as you keep reading, until you feel you have come to know this person and her country better.

True understanding can never occur between a subject and an object. It only emerges between two subjects. In order to understand the Vietnamese people, people whose lives are intertwined with ours, we must not simply talk about them --we must genuinely listen to them. We are very fortunate, then, that Trần Thị Bông Giấy's book has been translated into English-- and that the translation was done with such skill and sensitivity by her brightest former piano student, a twenty-year-old who is so close to her –Trần Thy Hà.

The book teaches us again an important lesson about literature --that while it is always about the unique and particular, it also speaks universally to all human beings; for in the voice of another, we hear back, in a new and powerful way, our own speaking about loss, struggle, and hope.

MARK BERKSON

PhD., University of San Francisco

SF. May 1998

LỜI GIỚI THIỆU
(TTBG chuyển ngữ)


Nước Mỹ trải qua nhiều giai đoạn trong sự cố gắng đặt để một thỏa thuận liên quan tới cuộc chiến Việt Nam. Trong cái hậu quả tức thời của chiến tranh, đã xảy ra rất nhiều những nỗi hoài nghi, giận dữ, đổ thừa và đau khổ. Sau đó, trong một lúc, là sự yên lặng. Nỗi đau đớn chạm trán được kềm nén, chậm hoãn -nhưng không phải là loại bỏ.

Để hàn gắn những mất mát thua thiệt tạo ra từ sau cuộc chiến, chúng ta phải bắt đầu tìm hiểu về cả hai phía tâm hồn cá nhân và những đàm luận chung trên vấn đề VN.

Thoạt tiên, với một tia nhỏ, và rồi cả một dòng nước lũ, những nhà văn và những đạo diễn khởi sự vùng vẫy với đề tài chiến tranh Việt Nam. Đặc biệt, qua môi trường phim ảnh, cái đề mục này lần nữa dậy lên trong ý thức hiểu biết quần chúng Mỹ. Sự im lặng được thế chỗ bằng những cuốn phim bi quan, đen tối, thường xuyên bóp méo sự thật (như The Deer Hunter; Coming Home, Platoon, Full Metal Jacket...) theo một đường lối riêng để cố gắng trình bày về chiến tranh Việt Nam và cái hậu quả của nó. Tuy nhiên phần lớn, những cây bút và phim ảnh đều thuộc về phía người Mỹ. Chúng ta chưa bao giờ thực sự được nghe những mẩu chuyện, những bản văn và tiếng kêu gào của người Việt Nam. Mọi thống khổ về thể chất và tâm lý do chiến tranh gây ra cho nước Mỹ thật sự đã không thể so sánh với những thống khổ mà người dân Việt Nam đã phải nhận chịu. Xứ sở của họ, vùng đất yêu dấu mà họ đã rút ra thực phẩm và sức mạnh thì vẫn còn bị rỗ hoa với các hố bom đại bác, những mìn đạn; và đang chậm chạp phục hồi từ sau các cuộc tấn công của chất độc.

Hơn một triệu người Việt Nam --trong số có rất nhiều người không từng tham gia quân đội-- bị giết. Những tay chân nhân tạo được lắp ráp là một cảnh tượng rất thường. Dù thế, chúng ta chưa từng thực sự được nghe tiếng nói của người Việt Nam về những điều như thế. Hơn nữa, lại còn có một vấn đề khác. Với đa số người Mỹ, “Việt Nam” có nghĩa là “Chiến Tranh Việt Nam”, bởi vì Việt Nam luôn luôn là một đối thể của chúng ta, một phần đau khổ của lịch sử nước Mỹ, biểu tượng bằng hai mươi năm chiến tranh dữ dội và sự ngờ vực lẫn nhau, xảy ra từ thập niên 50 tới thập niên 70.

Tuy nhiên, nếu chỉ đơn giản nhìn về Việt Nam qua hai chữ chiến tranh thì chúng ta phải nhận thực rằng cuộc chiến ấy đã kéo dài từ trước trong suốt 50 năm chiến đấu với người Pháp vào giữa thế kỷ 19, và còn lùi xa hơn trên những cố gắng duy trì các đặc tính riêng của nó trong sự đương đầu với ảnh hưởng Trung Hoa lần lượt trên đủ mọi mặt triết lý, chính trị, văn hóa và thường xuyên là quân đội. Theo lối nói của một học giả thì đó là một “cuộc chiến dài hai ngàn năm.”

Dù rằng chiến tranh đã gây nên một ảnh hưởng rất lớn trên Việt Nam thì đó không chỉ là một bãi chiến trường thôi mà còn là một nơi chốn lôi cuốn sự khám phá của rất nhiều người Mỹ. Một xứ sở với một lịch sử, một nền văn hóa riêng đã sản xuất ra những vần thi ca, những áng văn chương đẹp và những truyền thống phong phú về âm nhạc, kịch nghệ; điều mà chúng ta đã biết từ tác giả, một nhạc sĩ có khả năng mang những note nhạc vào đời sống qua ngã văn chương. Việt Nam cũng còn là một vùng đất với những ruộng lúa, những thành phố náo nhiệt, các nông trại và các làng xóm. Nhưng hơn hết, là con người Việt Nam. Những con người ở cả hai phía đang xây dựng lại quê hương và đời sống họ ngay trên xứ sở, và những con người tản mác ra trên toàn thế giới ở nhiều mức độ khác nhau, sống, như những công dân của vùng đất mới hoặc như những kẻ bị lưu đầy đang chờ đợi ngày trở lại quê hương. Để hiểu họ, chúng ta phải lắng nghe tiếng nói họ. Tiếng nói Trần Thị Bông Giấy là một tiếng nói đẹp biểu tượng qua cuốn bút ký này. Cái nhìn của tác giả được gọt bén bởi thời gian trải qua trên ba vùng đất -Việt Nam, Pháp và Mỹ-; ba nền văn hóa cuộn lẫn vào nhau, bây giờ đang tranh đấu để kiếm tìm một sự hòa hợp, qua một tác phẩm xúc động.

Trần Thị Bông Giấy đã không phí nhiều thì giờ trên những vấn đề về chính trị, những lời công kích dữ dội, những bàn cãi hay lý thuyết; mà chính là một nhà văn của sự thực tiễn và rất đặc thù, chứ không là của sự trừu tượng mơ hồ và đại thể.

Đây là một cuốn nhật ký thân mật nói về các bữa ăn được chia xẻ với nhau, những ký ức gợi lại theo các cuộc trình diễn, các mẩu chuyện trao đổi, các hình ảnh và các cuộc gặp gỡ cá nhân –mở cuốn bút ký này ra, cả hai vùng trời Việt Nam và Pháp cùng hiện ra trước mắt bạn với tất cả mọi cảnh tượng, những âm thanh, những xếp đặt và mùi vị của chúng. Tác giả đã mang đến cho chúng ta hàng loạt con người mà đời sống họ đã được va chạm và hình thành trong nhiều đường lối. Chúng ta nhìn thấy những liên hệ được cấu tạo suốt qua các ranh giới văn hóa, như thể nhìn thấy những phần đoạn còn tồn tại bên trong con người họ –người Việt Nam, cũng như người Mỹ, vẫn bị phân hóa một cách sôi nổi theo đề tài chiến tranh. Dầu vậy, cuốn bút ký Nước Chảy Qua Cầu với đầy những câu chuyện và các nhân vật sẽ lưu lại lâu trong lòng độc giả sau khi cuốn sách đã được gấp.

Những hiểu biết của TTBG về Việt Nam thì rất đặc sắc bởi vì tác giả đã trình bày một nơi chốn đã lìa bỏ nhiều năm rồi mới trở lại với nó. Có một sự sống động cực độ của một con người trong cái nhìn mới về một quê hương cũ-- điều vừa tạo thành cho tác giả một sự hiểu biết phong phú, đồng thời cũng là nỗi đau thương càng mạnh mẽ hơn. Ở đây, thực sự là có hai cuốn bút ký –bởi vì tác giả không chỉ phơi bày một nước Việt Nam qua đôi mắt của một kẻ đang trở về chốn cũ, lại còn cho chúng ta những hiểu biết về một công dân Việt Nam đang chấp hành một cuộc sống mới ở Âu Châu.

Cá chất nhà văn sáng tỏ suốt qua tác phẩm. Tác giả là một người cực kỳ kiêu hãnh và rất nhậy cảm. Một phụ nữ Việt Nam truyền thống đối diện với một thế giới đang thay đổi và không chắc chắn. Trên tất cả, Trần Thị Bông Giấy là một nghệ sĩ, và chữ nghĩa được dùng trữ tình đến độ những hàng viết giữa văn chương và thi ca biến mất cả đi.

Sự đối thoại trong văn chương –cũng giống như trong âm nhạc- đã thường xuyên có ẩn chứa một tiếng nói câm lặng nhưng rất mạnh mẽ, nắm bắt sự chú ý của độc giả. Tiếng nói của Trần Thị Bông Giấy đúng là tiếng nói như thế.

Dần dà, chỗ này là một câu chuyện cảm động hay một gợi nhớ về một nhân vật, chỗ kia là sự trầm ngâm suy nghĩ theo một bài thơ hay một buổi trình diễn nhạc kịch..., những chủ đề cứ thế đan thắt vào nhau, những mảnh đoạn cứ vậy kết hợp với nhau thành là một. Cái hiệu quả này cứ dâng lên mãi khiến bạn không thể ngừng đọc cho đến khi hiểu được rõ ràng về tác giả và xứ sở Việt Nam.

Sự thấm hiểu không bao giờ có thể xảy ra giữa một đối thể với một chủ thể, mà chỉ là giữa hai chủ thể. Để hiểu thực sự về người Việt Nam, những con người mà cuộc sống của họ đã từng cuộn quấn vào với chúng ta, chúng ta không thể chỉ trình bày đơn giản về họ, mà còn phải nghiêm trang lắng tai nghe họ. Với điều này, chúng ta đã rất may mắn bởi vì tác phẩm đã được dịch sang Anh ngữ một cách khéo léo và đầy xúc cảm bởi người học trò dương cầm sáng giá nhất của tác giả, một thiếu nữ 20 tuổi rất gần gũi với tác giả -Trần Thị Như Hà.

Tác phẩm đã dạy cho người Mỹ chúng ta một bài học quan trọng lần nữa về văn chương –cái điều không phải chỉ nói về sự đặc thù hay cá biệt thôi, mà còn trình bày rộng rãi ra với tất cả mọi người-- bởi vì từ tiếng nói kẻ khác, chúng ta có thể nghe lại được, bằng một đường lối mới hữu hiệu hơn, tiếng nói của chính chúng ta về sự thua thiệt, đấu tranh và niềm hy vọng.

MARK BERKSON

Tiến sĩ, Ðại học San Francisco.

San Francisco, May 1998.



BÀI 4

V.


Đêm ở Anvers (Belgique)

Sau suốt một chiều tối uống với nhau những chai champagne để mừng Daniel vừa trúng một giao kèo với đài truyền hình RTL Hòa Lan, năm người chúng tôi bước vào một quán rượu cạnh bên hải cảng Anvers, lúc đã khuya. Quán vắng lạnh lùng với dăm ba chàng thủy thủ ngồi cúi đầu uống rượu. Lão chủ già ngủ gục sau quầy. Ánh đèn hắt hiu vàng vọt. Cái máy hát nơi góc phòng cứ quay mãi không ngừng âm điệu buồn bã của bản nhạc Merci Chérie.

Đêm đẹp quá! Lãng mạn quá! Tiếng còi tàu dưới cảng rít lên từng chặp nghe buồn áo não. Cơn gió ngoài khơi thổi vào nhuốm đầy hơi hướm biệt ly. Hương champagne váng vất trong đầu làm cho đôi mắt thấy ra rằng đêm càng tuyệt đẹp. Và rồi bên tai như một nỗi giục giã của Định Mệnh, những âm thanh nghẹn ngào vẫn từ cái máy hát cất lên:

Merci chérie, toi, l’amour de ma vie

Merci chérie pour les heures que tu m’as donné

Adieu! J’ai des larmes dans les yeux

Je dois m’en aller

Je dois te quitter

Mon coeur blessé, blessé

Je sais que tout va finir

Merci chérie!

Adieu chérie!

(Cảm ơn người yêu của đời anh

Cảm ơn những lúc hạnh phúc em đã mang cho anh

Vĩnh biệt em! Đôi mắt anh ứa lệ

Anh phải ra đi

Đành từ bỏ em

Trái tim tan nát

Anh biết rằng tất cả đang chấm dứt

Cảm ơn em!

Vĩnh biệt em!)

Lưu diễn Chợ Lách, Bến Tre.

Chợ Lách là một trong ba huyện của cù lao Minh, thuộc tỉnh Bến Tre. Con sông Tiền chảy đến vùng Cái Bè, Vĩnh Long thì mở ra ba chi lớn: sông Mỹ Tho với hai cửa Tiểu và Đại; sông Hàm Luông; sông Cổ Chiên với hai cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu. Ngoài ba chi ấy còn có sông Ba Lai nằm giữa sông Mỹ Tho và sông Hàm Luông. Bốn con sông này tạo thành ba dải cù lao: cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hóa. Cù lao Bảo gồm các huyện Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri và thị xã Bến Tre. Cù lao An Hóa là huyện Bình Đại. Phía biển của cù lao Bảo và cù lao An Hóa có Cồn Hố, thấp và xanh um cây cối. Cù lao Minh gồm các huyện Chợ Lách, Mõ Cầy và Thạnh Phú. Ngoài biển cũng có cồn.

.. .. ..

Tháng 1/1979, đoàn di chuyển qua Chợ Lách, dựng rạp trên một bãi đất rộng. Nhân viên đoàn được phân phối cư ngụ trong các mái tranh của dân địa phương.

Trời đêm sáng trăng. Giữa các đoạn tạm nghỉ phần đệm Tân Nhạc của đêm trình diễn, tôi vẫn ưa thích ngồi chồm hổm trên mặt đất nơi một góc hậu trường, nghe các anh công nhân kể chuyện. Trong đoàn hát 120 người thì giới công nhân chiếm đến hơn một nửa. Đa số bọn họ không được học hành đầy đủ. Có người lại chẳng hề biết đến trường học là gì. Tuy nhiên, vốn liếng hiểu biết của họ về cuộc đời làm cho tôi vị nể. Những kinh nghiệm sống, những chuyến đi góc bể chân trời đã là những ngôi trường quý báu họ từng theo học từ nhiều năm qua.

Trong các câu chuyện kể, cái thế giới được nghe hoàn toàn khác xa với thế giới rực rỡ đầy màu sắc mỗi đêm tôi vẫn thấy. Ở đây, tôi hình dung ra những lũy tre xanh, những xóm thôn mộc mạc, các con người này đã phải giã từ trong nuối tiếc. Ở đây, tôi tưởng tượng ra cặp mắt đã khô đôi giòng lệ của các bà mẹ già mãi ngóng tin con. Ở đây không phải là ánh đèn màu với những hào quang lộng lẫy. Ở đây chẳng là tình nghĩa đổi thay mau lẹ như những chiếc áo cần đổi thay cho hợp cảnh, hợp màn.

Một anh công nhân kể với tôi: “Má tui rất mê Cải Lương. Đi đâu bả cũng khoe với chòm xóm là có con đi theo gánh hát. Bả tưởng tui làm ông to bà lớn nào trong gánh hát, dè đâu tui chỉ là một thằng vác phông. Tui vẫn ước ao một lần gánh tui ghé về quê cũ để đón má tui đi coi Cải Lương cho đã. Tội nghiệp, tui biết bả hà tiện, mê thì mê vậy chứ đâu dám bỏ tiền mua vé đi coi. Một lần lâu lắm mới được về hát ở gần chỗ tui ở, tui mừng rơn, theo đò về rước má tui. Tự nghĩ phen này bả sẽ được hãnh diện chừng nào với bà con chòm xóm. Nào dè khi gặp, tui mới hay là đôi mắt bả đã mù!”

Một anh khác nói: “Tía tui thì lại khác với bà già anh. Ổng có chút chữ Nho ông nội tui để lại nên cho Cải Lương là xướng ca vô loại. Ổng dạy tui rất nghiêm, đánh tui dữ lắm. Ổng muốn tui lớn lên làm thầy thông thầy ký cho ổng nở mày nở mặt. Kẹt cái là ổng có vợ nhỏ. Má tui chết hồi tui còn chút xíu. Vì vậy, không chịu nổi những lời đâm thọc của bà dì ghẻ, tui bỏ nhà trốn theo gánh hát, đi miết không về. Cấp đó tui mới chừng 12, 13 tuổi. Một bữa tía tui nghe nói làng kế bên có rước gánh tỉnh về hát Tết nên chèo ghe qua kiếm tui. Nào dè ổng bị Tây đi ruồng bắn chết. Hay tin, tui khóc quá trời. Bây giờ cứ ngày Tết là tui nhớ ổng, van xin ổng tha cho tui cái tội bất hiếu.”

Cải Lương là một giới vẫn bị mang tiếng đổi vợ thay chồng nhanh như thay áo. Điều này không hẳn đúng với giới công nhân. Có những cặp vợ chồng ăn ở với nhau năm này qua năm khác trên chỉ một góc hậu trường một cách êm đềm đằm thắm. Có những con người lo lắng từng chút một cho nhau bằng cung cách thành thật hiếm thấy nơi một giới cao hơn.

Một lần, tôi nghe một anh công nhân bày tỏ: “Tui và vợ tui lấy nhau hồi hai mươi tuổi khi cùng đi theo gánh hát; ở với nhau có một mặt con mà chẳng hôn thơ hôn thú gì ráo. Cấp tui bị bắt đi quân dịch mấy năm, tưởng bả đi theo người khác, dè đâu bả vẫn ở vậy chờ tui. Chừng gặp tui, bả mừng hết cỡ, cứ đứng ngây mà ứa nước mắt.”

Một anh khác tâm sự: “Dẫu gì thì vợ tui hồi xưa cũng là con nhà có vườn có ruộng. Chỉ vì thương tui mồ côi nên trốn nhà đi theo gánh hát với tui. Bả lại có sắc nên không thiếu gì kép hát quơ quào chọc ghẹo. Vậy mà bả không ưng, lại còn nói gái chính chuyên chỉ lấy một chồng!” Cách bày tỏ của những con người lao động này đơn sơ nhưng hàm chứa cả một tấm tình sâu sắc. Mối liên hệ gia tộc hay cái nghĩa tào khang được họ trân trọng còn đậm đà hơn trong các vở tuồng vẫn hát mỗi đêm. Sân khấu và cuộc đời đâu có gì khác biệt? Điều quan trọng là làm sao nhận chân cho ra giá trị của sự việc dưới lớp bề ngoài thô thiển đơn sơ.

Paris.

Nửa đêm tỉnh giấc, tôi chợt rùng mình theo tiếng gió rít luồn qua lò sưởi. Giấc mơ về đứa em gái út sao thật là buồn! Biết bao hình ảnh xô về trong trí nhớ. Bao kỷ niệm sống dậy giữa bóng tối mông lung... Cái đêm em ra đi, gió cũng rít nhiều như vậy, mẹ tôi thường nhấn mạnh điều đó. Chuyến đi không bao giờ tới, để lại trong tim mẹ già một lỗ thủng lớn không bao giờ còn lấp được cho đầy.

Năm năm rồi kể từ đêm ấy, cứ mỗi lần nghe tiếng gió rít giữa khuya là lòng tôi lại nhói đau, tưởng như có tiếng ai đang từ cõi xa xăm vọng lại. Giây phút cuối cùng của em trên biển lạnh sao cứ làm tôi suy nghĩ? Đêm đen. Biển đen. Bản năng sinh tồn bị dìm xuống tận cùng bởi Thần Chết mặc áo màu đen. Giây phút tuyệt vọng ấy, em đã nghĩ đến điều gì? Khung trời ấm áp có gia đình hiện diện? Khuôn mặt mẹ hiền có mái tóc bạc phơ? Hay là hình ảnh một người yêu, người bạn nào em đã bỏ lại nơi thành phố? Năm năm qua rồi mà trong trí tôi, nỗi thắc mắc này cứ còn quanh quất. Đó là niềm đau, một ám ảnh nặng nề đeo đẳng hoài giữa trái tim tôi.

Thạnh Phú, Bến Tre, cuối tháng 1/1979.

Trừ các lần di chuyển bằng đường thủy và xe lửa, đa số các chuyến lưu diễn của đoàn đều sử dụng xe đò quốc doanh, được ban Ngoại Vụ ký giao kèo thuê mướn với công ty xe khách mỗi lần đổi bến.

Sau 1975, giống như ngành ca hát, ngành giao thông vận tải đường bộ cũng đã vướng vào cái nạn vé chợ đen. Vì vậy, như một thỏa hiệp ngầm, trên những chuyến xe đò mang bảng hiệu đoàn, ban quản trị đã mặc cho những người lơ tự do rước một số khách ngoài để kiếm thêm lợi tức. Số khách này hầu hết là người đi buôn xa; với một chỗ ngồi hay đứng phía sau đuôi xe, họ phải trả một giá gấp ba so với giá chính thức.

Hệ thống quản lý thị trường giăng ra chằng chịt trên khắp các quốc lộ để chận xét, tịch thu các món hàng của người đi buôn lẻ. Đã có nhiều việc đáng tức cười pha lẫn thương tâm xẩy ra trong khía cạnh này. Trên đường đi Hậu Giang, có những người đàn bà quấn quanh đùi, bên dưới chiếc quần đen ống rộng, những tảng thịt heo, mỡ heo để qua mặt quản lý thị trường. Trên các chuyến xe lửa Sàigòn-Hà Nội cũng đã có nhiều người đàn ông khoẻ mạnh, một cánh tay bó chặt bằng vải bố ôm vòng thanh sắt giáp nối giữa hai toa xe, cánh tay còn lại đón bắt những túi gạo nặng 10 đến 20 kí từ các người buôn chung, đứng dọc dài dưới đất, nơi chuyến xe lửa lăn bánh chậm lại trước khi vào ga chính. Sau đó lập tức, các túi gạo này được các người bên trong toa xe đón lấy và cho tẩu tán.

Cũng trên những chuyến xe lửa, quãng đường Tuy Hòa-Vạn Giã, khi quản lý thị trường lên khám xét, đã có những người đi buôn lẻ vội vàng leo lên mui xe lẩn tránh. Chuyến xe chuyển bánh, chui vào đường hầm. Những con người đáng thương này bất ngờ bị gạt té, thân thể nát nhừ dưới lằn bánh sắt. Trên những lộ trình lưu diễn, chúng tôi gặp rất nhiều người đi buôn lẻ đón chuyến xe đoàn. Cứ sắp đến một trạm gác là những bịch trà, bịch cà-phê, tôm khô hay bất cứ thứ gì cũng có thể được quẳng nhanh vào chỗ ngồi của nhân viên đoàn ngay khi ấy để qua mặt nhân viên quản lý thị trường.

.. .. ..

Con đường bộ từ Chợ Lách qua Thạnh Phú rất gập ghềnh lồi lõm. Những lúc gặp phải một cái ổ gà, chiếc xe đò nhẩy chồm lên làm cho mọi người bỗng dưng giống như đang chơi trò nhào lộn.

Có một hình ảnh khiến tôi không sao quên được. Khi chiếc xe chạy qua khỏi một bệnh xá ở ngoại ô châu thành Thạnh Phú thì được đón lại. Có tiếng khóc nghẹn ngào đau đớn. Có vài người lố nhố trên đường. Những người này đón chiếc xe đoàn để xin chở cái xác một người thân vừa chết ở bệnh xá. Xác chết được bó lại trong một chiếc chiếu, hai bàn chân vàng ệch khô héo ló ra ngoài. Người đàn ông độ 40, vẻ chịu đựng, đã nói với ban quản trị đoàn rằng vợ ông ta, 29 tuổi, chết vì ung thư máu. Giọng ông run run như vướng đầy lệ. Người ta thu xếp nhanh một chỗ nằm cho người vắn số trên mui xe.

Tự dưng, tôi nghe xúc động kỳ lạ. Chẳng hiểu tại sao? Có lẽ nguyên nhân phát sinh từ đôi bàn chân người đàn bà ló ra bên ngoài chiếc chiếu? Chiếc chiếu ngắn quá không đủ làm ấm chân người chết? Hay là bà mẹ quê hương nghèo khổ quá không đem được cho đàn con những vật chất bình thường? Tôi cũng tự hỏi, trên tầng mây kia, biết linh hồn người chết trẻ có thấy an bình hơn khi cúi nhìn lại cái mui xe đã dằn xóc thân thể bà không chút nào xa xót? Và ở cái thế giới mới lạ bà vừa đặt chân đến kia có được êm đềm hơn vùng quê cũ nghèo khó của mình?

Những điều này cứ ám ảnh và ám ảnh tôi hoài trong suốt chiều tối đầu tiên đặt chân đến Thạnh Phú.

Paris. Viết cho Hạnh.

Hạnh thương nhớ,

Thư này đến thì đã gần Tết, em cầu chúc Hạnh và bé Thương Thương một mùa Xuân êm đềm, hạnh phúc.

Bên này đang giữa mùa Đông nên trời rất lạnh. Mấy hôm nay, nhiệt kế xuống đến 20 độ dưới không độ. Tuyết ngập đầy phố. Mùa Đông này, ai cũng bảo lạnh hơn mọi năm.

Em hiện đang làm việc trong một quán café ở Paris, đồng thời hợp tác với một ban nhạc Pháp, đi trình diễn khắp nơi, luôn cả ở ngoại quốc. Mỗi lần đi như vậy là em lại phải giao phần việc ở quán café cho một cô bạn nhận giùm. Cũng may, mình được bà chủ quán thương. Bà này có chồng đi lính ở Việt Nam thời trước, rất có cảm tình với dân Việt Nam. Vì vậy, việc làm không mất sau mỗi bận đi xa như vậy.

Đời sống Âu Châu không dễ dàng, Hạnh ạ. Con người phải chạy đua từng phút với thời gian mới mong theo kịp đà tiến của xã hội. Em cũng bị quay cuồng như thế suốt hai năm đầu ở Pháp. Nhưng giờ thì đã quen. Giờ thì em vẫn có đôi lúc rảnh rỗi đi uống café, tìm lại con người thật của mình, tìm lại quãng thời gian đã mất. Những khi ấy, em thật nhớ Sàigòn và nhớ Hạnh.

Chiều hôm nay, trời Paris rất đẹp. Mây xám chập chùng giăng phủ. Những hạt tuyết mỏng rơi nhẹ trong không gian trông giống như những sợi bông gòn tả tơi bay trong gió. Cũng có lúc, em như thoát được ra ngoài sự quay cuồng của cuộc sống để lắng lòng mình trước một khung trời bao la, man mác. Và sao thật kỳ lạ, em cứ gợi nhớ hoài những ngày tháng chúng mình lưu diễn Mũi Né, chỉ riêng em và Hạnh trú lại trong căn nhà gỗ lẻ loi trên bãi cát của người đàn bà có chồng đi biển xa. Kỷ niệm đối với em là những điều quý giá, là một phần hạnh phúc cuộc đời mà khi về già, mình hưởng được rất nhiều ấm áp từ nó. Thì, trong năm năm trời phiêu bạt, Hạnh và em đã có không biết bao nhiêu kỷ niệm với bạn bè. Chúng mình không thể chối được điều rằng, đời sống Cải Lương với những chuyến lưu diễn dài đã là những tư liệu quý báu làm tâm hồn mình phong phú, dù rằng cũng chính đời sống ấy đã làm mất đi của mình phần nào cá tính nguyên sơ.

Chiều nay, em nghe lòng yên bình quá. Điều này thật quả hiếm hoi trong cuộc sống quay cuồng của em ở đây.

Hạnh thương nhớ,

Năm nay em lại đánh rơi một mùa Xuân nữa trên quê hương. Giờ đây chỉ nghĩ đến những ngày cuối năm, đường phố Sàigòn ngập đầy các hàng pháo đỏ, bánh chưng xanh xếp cạnh các gốc mai vàng ối và những chồng dưa hấu chín mọng, lòng em như thắt lại. Người Việt Nam xa xứ gần như chẳng Tết nhất gì cả. Đó không phải là lễ của người Âu Châu nên dân Việt Nam vẫn phải đi làm trong ba ngày thiêng liêng ấy. Buồn lắm, Hạnh ạ!

Em tạm ngưng. Cho em hôn bé Thương Thương.

Thân ái.

Đêm cuối cùng ở Thạnh Phú.

Tan hát xong, đoàn phải di chuyển ngay bằng ghe lúc 12 giờ khuya cho kịp qua Châu Hưng ngày kế tiếp. Cả 120 người đều không ngủ, thu dọn, gồng gánh xuống thuyền, tiếp tục lộ trình lưu diễn.

Trên những phiến gỗ dài xếp ngổn ngang bên cạnh bến đò, tôi ngồi chuyện trò cùng người bạn chơi trompette. Bầu trời trong vắt không một gợn mây. Muôn ngàn vì sao sáng ngời, lấp lánh. Bóng tối bao trùm sâu chung quanh ngọn đèn dầu lớn trong tay anh tổ trưởng Dàn Cảnh để chỉ huy các tổ viên làm việc. Những gánh cháo khuya, nơi đầu gióng lơ lửng ngọn đèn mờ, theo chúng tôi đến tận bến đò để mong vớt vát thêm vài đồng bạc cuối.

Đêm mang một mùi thơm huyền bí. Cây đa già nơi chiếc quán đầu ngõ chợ âm thầm yên ngủ. Những bụi lau xôn xao theo bước chân đoàn người lữ thứ. Xa xa, ở tận cuối làng, tiếng chó tru buồn thảm nghe như tiếng ma gào quỷ khóc, hòa hợp với bản tấu khúc đơn điệu của các loại côn trùng, càng làm cho đêm tăng thêm mùi huyền bí.

Có những lúc lặng yên, tôi ngắm nhìn các vì sao. Các vì sao tôi yêu từ khi còn bé. Các vì sao trong truyện kể của Alphonse Daudet(1) đã được khắc sâu trong ký ức tuổi thơ. Các vì sao làm giàu cho trí tưởng tôi khi tin rằng điều mình ước sẽ thành nếu có một vì sao băng ngang khi ấy. Các vì sao vẫn theo tôi góc bể chân trời trên bước đường đây đó lãng du.

Tôi cũng nghĩ đến cuộc sống giang hồ hiện tại. Những đêm hát khuya, ít ngủ. Những sáng thức giấc sớm lên đường. Đôi mắt trũng sâu và cả thân hình hao gầy mòn mỏi. Nhưng bù lại, như một ân sủng của Thượng Đế, là những mối xúc cảm trong hồn vẫn còn lai láng trước một thiên nhiên huyền bí. Và tôi cho rằng đó chính là điều may mắn lớn, Thượng Đế đã đưa đến trong cuộc đời tôi.

Paris.

Đêm, trở về nhà muộn, ngồi chuyện trò ít phút với mẹ già, nghe bà than phiền về sự ăn ngủ thất thường của tôi. Tôi lặng im nhớ đến buổi tối làm việc nhọc nhằn ở quán café, muốn tâm sự với bà bao nỗi khó khăn trong cuộc sống. Và tôi bâng quơ bày tỏ: “Tự nhiên sao lại bỏ xứ ra đi để làm tôi làm mọi cho kẻ khác. Bây giờ mới đầu mùa thu mà con đã nghe sợ hãi quá mùa đông...” Giữa hai mẹ con bỗng dưng có một sự im lặng rất ngậm ngùi.

Một câu nói của bà khiến tôi điếng lòng không ít: “Nhiều ngày tháng khi con đi làm hay đi trình diễn xa, thằng San đi học, mẹ cứ đi lui đi tới trong nhà mà không biết làm gì để thì giờ trôi qua cho hết.” Tôi đâm bặt ngang mọi ý nghĩ riêng, nghe một chút xấu hổ dấy lên trong lòng. Và tôi nhìn lại khuôn mặt già nua thân yêu dường ấy mà tưởng như lần đầu mới gặp...

Tôi hiểu nỗi cô đơn của mẹ tôi, của những người già trong cảnh sống cách xa vùng quê cha đất tổ. Hiểu cái tâm trạng vời vợi buồn, mỗi ngày phải bó gối trong nhà nhìn tuyết rơi tầm tã ngoài song. Quê hương, bà con, xóm giềng, làng mạc... tất cả đều xa xôi quá! Gần gũi chỉ còn lớp con phải đầu tắt mặt tối với đời sống; lớp cháu thì lại thuộc một thế hệ khác đã bị Âu hóa phân nửa hay gần trọn cả rồi. Cứ vậy mà nỗi buồn ngày một tăng trong trong tâm hồn những con người già nua đáng thương ấy; nỗi cô đơn bám dính, có khi gần xuôi tay nhắm mắt, còn chưa một lần rời khỏi trái tim.

Cuối tháng 1/1979. Lưu diễn Châu Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.

Có những kỷ niệm và những nơi chốn một đời tôi vẫn nhớ. Năm ngày ở Châu Hưng cũng vậy. Đây là một xã rất nhỏ thuộc huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Trước 75, muốn đến Châu Hưng, không thể đi bằng đường bộ vì sợ trúng mìn (…Lược 2 chữ…); phải đi bằng đò máy, bến đậu đặt tại vựa trái cây Mỹ Tho, xuôi theo dòng sông Cửu Long. Một làng quê hẻo lánh không có tên trên bảng đồ nước Việt. Nơi đây, tâm hồn con người đơn sơ, dễ chịu. Các mái nhà tranh nhỏ xíu nằm gọn lỏn trong những khu vườn um tùm cây trái. Những con đường mòn im lìm, mát rượi chen giữa các bụi tre chỉ đủ cho một người đi qua.

Ngôi nhà tôi và hai người bạn xin trú tạm là của một ông cụ hiền lành, sống lẻ loi đơn chiếc; một năm đôi lần mới có cô con gái bế con từ chợ Mỹ Tho đáp thuyền về thăm.

Ngay từ buổi đầu đến đây, tôi đã được nghe anh em đoàn kháo nhau về một “ngôi chợ ma” chỉ nhóm từ lúc nửa đêm cho đến cuối canh năm gà gáy. Đêm thứ nhì sau khi tan hát, chúng tôi một bọn bốn người đi bộ ba cây số đường làng tìm đến ngôi chợ ma.

Chợ họp trong một cái đình. Bên ngoài trời tối đen, bên trong nhuốm đầy vẻ liêu trai huyền hoặc. Người ngồi co ro như xác chết. Người đi lui, tới như bóng ma. Các tia ánh sáng chập chờn nhảy múa trên hai bức vách. Từng mảng bóng tối ẩn núp, rình mò. Đó đây, tiếng mời chào, trả giá nghe thật mơ hồ thăm thẳm. Thỉnh thoảng có cơn gió lạnh lùa vào, giống như một linh hồn vừa thoát trần gian đến xin nhập cuộc.

Tôi mở to đôi mắt, không ngờ rằng trong đời lại có lần bắt gặp hình ảnh hãn hữu quý giá đến vậy. Giữa một thời đại mà con người đã đặt chân lên tới tận cung trăng thì trong đất nước tôi vẫn còn tồn tại một ngôi chợ liêu trai kỳ ảo! Ánh sáng văn minh không soi tới được nơi này. Thật là chua xót, nhưng sao cũng thật ngậm ngùi xúc động.

Ngang qua một hàng xoài, một bà cụ già đưa nụ cười móm mém ra chào khách. Tôi ngồi xuống lựa mua dăm trái, rồi hỏi bà do đâu mà chợ lại họp vào lúc nửa khuya? Bà kể, từ thời Pháp thuộc, để tránh máy bay địch hay bỏ bom ban ngày, dân trong xã phải họp chợ vào buổi tối. Cái lệ ấy mấy chục năm sau vẫn không thay đổi.

Tôi uống từng câu kể của bà –một chứng nhân lịch sử- về cái thời xa xưa đó. Hình ảnh những người dân quê băng đồng, lội ruộng tìm đến với nhau, ngồi bên nhau đôi giờ trong đêm như những bóng ma vất vưởng luyến lưu trần thế, không những bi thương mà còn là tuyệt vời nữa. Trái tim tôi thắt lại. Cả tâm hồn tê buốt, lạnh căm. Ngoài kia, ánh sáng trên mình những con đom đóm lập loè, ẩn hiện. Cơn gió lạnh vẫn lùa qua từng lúc, tựa như tiếng thở dài của những linh hồn ưu uất còn lẩn quất đâu đây...

Đêm chưa tan và ngày chưa tới…

CÒN TIẾP ...




© Cấm trích đăng lại nếu không được sự đồng ý của tác giả .



TRANG CHÍNH TRANG THƠ ĐOẢN THIÊN BIÊN DỊCH HỘI HỌA ÂM NHẠC