TÁC GIẢ
TÁC PHẨM



ĐỖ TRỌNG KHƠI



Sinh: 17.7.1960 ( 24.6 Canh Tý)
Tại : Trần Xá, Văn Cẩm, Hưng Hà, Thái Bình
Hiên ở tại : Phường Phú Khánh- TP Thái Bình - Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
- Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình

Các giải thưởng:
- Giải Nhì cuộc thi thơ Tuần báo Văn nghệ năm 1989- 1990
- Giải C của Uỷ ban Trung ương liên hiệp Văn học nghệ thuật, 1993 cho tập thơ: Con chim thiêng vẫn bay
- Giải Nhì của Uỷ ban Trung ương liên hiệp Văn học- nghệ thuật, năm 2002 tập truyện ngắn Ma Ngôn
- Giải nhì cuộc thơ do nhóm thơ Thanh Xuân Hà Nội tổ chức năm 1992
- Giải khuyến khích cuộc thi âm nhạc trẻ do nhà hát tuổi trẻ tổ chức năm 1992.

TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN :

- Con chim thiêng vẫn bay ( thơ),1992
- Tháng mười thương mến ( Thơ), 1994
- Trước ngôi mộ thời gian ( Thơ),1995
- Gọi làng( Thơ),1999
- Cầm thu ( Thơ), 2002
- Ma ngôn( truyện ngắn), 2002
- Khúc thương đau ( Thơ), 2006
- Thơ hay- một cách nhìn( Bình thơ- sắp xuất bản)





THƠ

DU CA

ÁNH TRĂNG

HY VỌNG





BIÊN LUẬN

THƠ HAY - MỘT CÁCH NHÌN - TRÈO LÊN CÂY BƯỞI HÁI HOA




TRUYỆN

QUYỀN VÀ ĐỨC














Tranh của cố họa sĩ Tạ Tỵ.








QUYỀN VÀ ĐỨC

N gày Nguyễn Trãi chào đời, Bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh mời nhạc phụ và một ông thày tử vi người Tầu tới xem số Bát tự. Lập xong quẻ theo lối Thái ất, vẻ mặt quan Tư đồ nửa vui nửa lo âu. Rồi chẳng phán bảo gì ông rũ áo bỏ đi vào trong nhà. Còn thày tử vi sau ba ngày đêm đèn sách, người trong nhà thấy vẻ mặt ông ta cũng mang sự lưỡng lự vui buồn.

Mọi người lấy làm thắc mắc lắm.

Chẳng đừng được bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh gặng hỏi.

Ông thày tử vi bảo, chỉ vẻn vẹn có sáu chữ:

- Mệnh này phúc quốc, họa nhà !

Hỏi cách hóa giải thì trả lời, giọng buồn và ghê như vượn khóc:

- Cho yểu tử !

Bà phu nhân họ Trần nghe vậy ngã vật xuống giường bất tỉnh.

Quan Tư đồ thì giọng trầm uẩn nhủ:

- Họa dù một nhà mà phúc cho bách tính. Chẳng phải đạo trời hằng lấy một dưỡng muôn, đó ư? Mệnh được vậy chẳng đáng để kẻ sĩ sống trong cõi trời đất này dốc lòng gắng gỏi sao. ý trời đặt thế, nhà ta chấp thế . Nề chi! Nề chi! Ha... Ha... Đoạn quan Tư Đồ ngửa mặt cười sang sảng.

Nghe cha con quan Tư Đồ đối đáp, ông người Tầu rùng mình toát mồ hôi, miệng lẩm bẩm:

"Chí lớn, đức dầy. Nhân ấy, địa ấy sức nào chế ngự được ?" Rồi ông tạ từ, giữ mấy cũng không ở lại.

Câu chuyện trên nếu chưa làm bạn đọc thỏa mãn, thì ba cuộc thoại sau, tấm chân dung tinh thần Nguyễn Trãi sẽ được khắc họa hơn chăng. Ba cuộc thoại ghi theo cuốn sách dạng tộc phả nhà một người họ Đỗ, ngụ ở chân núi Phượng Hoàng cách Côn Sơn chừng dăm bảy dặm đường.

* * *

Hồi còn ở động Thanh Hư với ông ngoại, quãng thời Nguyễn Trãi khoảng mười lăm mười sáu tuổi. (Ghi chú: Có sách ghi rằng Nguyễn Trãi sinh năm Canh Thân 1380, xét thấy chưa thỏa đáng, vì thân phụ Nguyễn Phi Khanh kết hôn với thân mẫu Trần Thị Thái năm 1374, khi ấy bà Thái đã có thai và Nguyễn Trãi lại là con đầu). Một buổi quan Tư Đồ hỏi:

- Chữ Quyền và Đức có thể chung hòa làm một không?

Đáp:

- Quyền do Thời tạo, Đức do Đời sinh. Khi chung hòa làm một là khi Đời và Thời không chỗ phân chia, không cao - thấp, trong - ngoài. ấy là thời Vương đạo!

Lại hỏi:

- Mệnh quốc gia gặp buổi chữ Thời lấn át chữ Đời, thì có nên nương theo Thời mà cầu danh phận không ?

Tới đây sách không ghi lời đáp của Nguyễn Trãi. Là do tuổi ấy Nguyễn Trãi chưa đủ trí lực, hay còn chưa muốn bộc lộ chí hướng?!

Cuộc thoại hai.

Nguyễn Mộng Tuân hỏi:

- Tại sao Tiên sinh không đáp lời quan Tư đồ buổi đàm đạo xưa ấy ?

(Điểm này cho thấy mối quan hệ giữa ông Mộng Tuân và Nguyễn Trãi khá gần gũi). Đáp:

- Ta muốn lấy Đức chế Quyền, được chăng?

Hỏi:

- Họa lớn có phải thường nấp ở đấy không?

Đáp:

- Nề chi! Nề chi!

(Tôi đồ rằng, câu đáp này Nguyễn Trãi không vô tình khi dùng chữ của quan Tư đồ). Hỏi:

- Từng nghe lấy Bá đoạt Vương, lấy Quyền lấn Đức. ít thấy Vương định Bá, Đức lấn Quyền. Vì đâu?

Đáp:

- Vì, Vương thuộc Tâm, Bá thuộc Vật chăng?

Lại hỏi:

- Có câu, Tâm mượn Vật mà hiện. Đức có phải mượn Quyền để hiện không?

Đáp:

- Có thể. Ta muốn theo cách này!

(Tới đây, sách ghi lời bình: “Vật thuộc cõi thực, Tâm ở cõi hư. Vật vốn dễ dụ người, dễ quyến tình. Tâm thì khôn soi khó xét. Khổ thay cho Nguyễn! Khó thay cho Nguyễn!”. Không rõ lời bình của ai. Tôi ngờ rằng, lời bình này có cái văn phong của ông Nguyễn Mộng Tuân).

Cuộc thoại ba.

Bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh hỏi:

- Nhạc phụ của ta theo gương dòng Thánh phả, bỏ lệ kết hôn dòng tộc, cho bà Quận chúa xe duyên cùng ông tướng họ Phạm, nhờ thế ta và mẫu thân con mới nên vợ nên chồng. Con là người cảm được lẽ huyền vi, thông điều mệnh số. Rồi mai Đời tới điểm Thái (cực), hay gặp vận Chung (kết), con có theo được gương tổ Tuệ Trung không?

(Sách tả, Nguyễn Phi Khanh nói với giọng thương cảm, vẻ mặt ai hoài lắm).

Đáp:

- Tâm con tĩnh, ý chẳng tham cầu. Chỉ e Đời lại cầm buộc Tâm con.

Hỏi:

- Con nói rõ hơn, ta nghe.

Đáp:

- Thời tổ Tuệ Trung là thời Vương đạo. Quốc có Vương đạo, nhân được Tâm an. Đạo Phật hoàng phát là ở lẽ đời ấy. Nhân Tâm, nay buổi bất an, quốc thời nguy khốn. Kẻ sĩ có thể ngoảnh mặt rũ áo, vịn vào tích trượng mà vượt dốc đời được ư?

Lại hỏi:

- Quyền - Đức kỵ nhau. Thời bĩ nuôi Đức, thời thái nuôi Quyền. Chao ôi! Lẽ đời ngàn năm chênh vênh là vậy. Con muốn thời Thái càng phải nuôi Đức dưỡng Tâm ư? Con muốn theo lẽ đời ấy chăng?

(Tới đây, sách không ghi gì thêm. Tôi rất lấy làm thắc mắc. Vì sao trong ba cuộc thoại kể tới chỗ cần phân định lẽ chữ Quyền - Đức thì Nguyễn Trãi hai lần lấy sự "lặng im" thay lời bàn, đáp?!).

* * *

- Khi chia tay ở ải Nam Quan, cha con dặn trở về đền nợ nước, rửa thù nhà.

(Ghi chú: Có sách cho rằng Nguyễn Trãi theo cha sang tận xứ Hồ Bắc - nước Tầu).

- Ờ. Tốt ! Và con đã làm trọn.

- Còn một ý, con đã không làm được.

- Ý gì ?

- Cha con muốn con noi gương tổ.

- Vậy có được chăng? Vậy có trọn chăng?

Lâu sau, Tuệ Trung Thượng Sỹ tiếp:

- Con thường tự xem mình không bằng được Trương Lương xứ Tầu và lại muốn noi bước ta. Thực ra, ông Trương Lương ấy đâu có bằng ta, mà ta thì đâu bằng con. Không phải thế a? Lẽ cao khoát nhất của kẻ nhập thế là dụng Tâm mà định Thế. Lấy lời hùng văn mà phá cường quyền. Lẽ này ta và Trương Lương có bằng được con không? Còn với kẻ xuất thế, Tâm cốt tận tĩnh, Thế cốt tận diệt. Mô Phật! Nếu đời đạt tới vậy rồi thì Phật đâu còn phải cầu nữa. Vả nữa, đời đã vậy thì pháp đâu cần, tăng đâu cần. Cứu lấy nhân, độ thế chẳng phải là duyên ý của Phật sao! Điều hơn - thua, lẽ sướng - khổ, Phật không nương, hiền sỹ lương thần không dựa. Con còn bận ý nỗi gì?

Đường từ Yên Tử về Côn Sơn, Nguyễn Trãi vượt qua dãy Phượng Hoàng trong màn sương thu se lạnh... Bất giác Nguyễn Trãi choàng tỉnh giấc mộng. ấy là đêm 15 tháng Tám năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3. Ngày mai 16 tháng Tám, cả ba họ nhà Nguyễn Trãi ra pháp trường.

- Hồi đầu vạn sự giấc Nam Kha! Chợt Nguyễn Trãi ngửa mặt xướng lên sang sảng.



ĐỖ TRỌNG KHƠI

© Tác Giả và Việt Văn Mới Giữ Bản Quyền.




TRANG CHÍNH TRANG THƠ ĐOẢN THIÊN BIÊN DỊCH HỘI HỌA ÂM NHẠC