ặc dù trắng đêm không ngủ, nhưng suốt chặng đường trở lại xóm Bàu, Luân vẫn nhận ra vẻ đẹp thơ mộng của một miền quê yên ả.
Những rặng bần mọc ưỡn ngực ra mặt sông, như đem tất cả sức biếc xanh mà chở che cho đất. Lá bần xanh non xanh nõn. Thân bần sần sùi. Gốc bần càng sần sùi, gân guốc hơn. Cái đẹp non xanh của lá, cái đẹp gân guốc của thân, càng tôn vinh ngời ngợi cái đẹp muôn đời của loài cây mang tên khiêm tốn: cây bần. Bần quanh năm đứng dầm chân dưới nước, mà bông bần vẫn trắng nõn, phơn phớt sắc tím nhẹ nhàng. Bần quanh năm đứng dầm chân dưới nước, mà trái bần vẫn căng xanh, tròn trịa. Những đêm trăng, lá bần rung ngân ánh vàng lấp lánh. Những đêm tối trời, đom đóm rủ nhau về kết hội hoa đăng, cả rặng bần lung linh, nhấp nhánh, ngỡ như dãi Ngân Hà trên trời cao tuột xuống, trang hoàng cho bần chùm chùm đèn huyền thoại. Những ngày nắng óng ả, bông bần rung rinh cánh ong, cánh bướm. Những ngày mưa buông sợi long lanh, trái bần lặng lẽ gieo mình xuống nước, để rồi lại bật lên một chồi non đâu đó. Những ngày giông gió thét gào, cả rặng bần rùng rùng chuyển động, hát ngân lên khúc hát kiêu hùng của dòng họ: dẫu bần hàn, vẫn giữ tình yêu thủy chung cùng sóng nước. Dẫu bần hàn, vẫn vượt lên khổ đau mà tồn tại. Từ bao đời nay, những rặng bần hiên ngang đứng đó, dịu dàng đứng đó; lặng lẽ và kiêu hùng, đợi chờ và kêu gọi. Rễ bần quấn quýt, đan quyện vào nhau; ngó bần chen chúc, trỗi dậy trên sình non mướt rượt; tất cả liền thành một khối, đồng lòng chở che cho đất, giữ cho đất hai bờ sông không sụt lở.
Quê Luân ở bên kia, dưới hạ nguồn con sông này. Bờ bên ấy cũng xanh rờn bần chát, bần ổi. Luân nhớ hồi mới lên chín, lên mười, bấy giờ, le le lội đầy mặt nước, cồng cộc giỡn đen mặt sông, cò đàn đậu trắng trên cây. Thỉnh thoảng, Luân vẫn cùng đám bạn đi bẻ cẳng cò. Lựa những cây bần cao to, lá cành rậm rạp, cắt cử một hai đứa leo lên, bẻ cành lá giắt quanh người nấp kín. Những đứa còn lại, chia nhau tản ra vòng vòng, vừa rung cây vừa hô hoán um sùm. Lũ cò bị đánh động, đập cánh bay lên táo tác. Chúng không bay xa đi nơi khác, mà chỉ quần đảo lòng vòng tại chỗ. Bay một hồi, chúng lựa cây nào không hề thấy đụng cựa, sải cánh sà xuống đậu. Hai cẳng cò dài nguêu ngoao bao giờ cũng thò xuống một cách từ từ, thận trọng. Cẳng cò thò trúng chỗ đứa nào bẻ cành nấp sẵn, đứa đó cứ việc nhẹ nhàng đưa tay ra túm lấy, kéo tuột xuống, bẻ cẳng nhét vô bao. Bắt chưa dập bả trầu đã đầy nhóc một bao.
Trên cây thì bắt chim, hốt trứng, bẻ cẳng cò, dưới sông thì mò tôm, mò cá. Sướng nhất là mò tôm càng xanh cặp theo bờ những con kinh mọc đầy cây gáo. Lựa lúc nước ròng chảy xiết, đưa cả hai bàn tay mò trong đám rễ cây ngập nước. Lỡ đụng nhằm con tôm mà chưa bắt được, cứ việc mò quanh quẩn chỗ đó, thể nào cuối cùng cũng tóm được. Giống tôm thường chỉ bơi quanh quất một chỗ, bởi chúng sợ nước xiết, không dám bơi xa. Tôm càng xanh lột vỏ, xắt dọc thành lát mỏng, đem trụng nước dừa, miếng thịt chuyển màu đỏ au, ngọt lịm. Hồi đó tôm cá ê hề, món ngon lại là ốc đắng. Chỉ việc kiếm cái rổ thưa, lội xuống mương xúc một chặp chừng dăm bảy phút, đủ cho vài người ăn mệt xỉu. Con ốc đắng đem ngâm nước gạo qua đêm, đổ vào cái soong gang có lót lá sả, chụm lửa một hồi cho nó vừa há mày là được. Ốc chín phải xóc thật mạnh, khi lể mới lấy được hết thịt. Chấm con ốc vào nước mắm sả ớt đặc quẹo, ăn bắt no không ngán.
Đang đắm mình trong hồi tưởng, Luân thốt giật mình khi nghe Út nói:
- Anh Ba, lên quán dì Chín Đèo nghỉ uống nước nghen!
Quán dì Chín cất bằng tre lá sơ sài bên gốc một cây còng cành lá sum suê, bóng rợp một vùng đất. Út gọi hai trái dừa lửa, vạt đầu vắt vô mỗi trái một miếng chanh, bỏ thêm vô mỗi trái một dúm muối. Uống như vầy vừa ngon vừa giải cảm. Uống tới đâu tỉnh tới đó.
Út vừa uống dừa vừa kể cho Luân nghe chuyện tía cô bị chiếc cá rô của tụi lính Mỹ xỉa hầm. Bữa đó ông đang băng đồng từ cứ trở về thì đụng nhằm hai chiếc trực thăng cá rô của Mỹ. Loại cá rô có ưu điểm là gọn nhẹ, cơ động, và có thể bay đứng yên tại chỗ. Biết khó hòng chạy thoát tụi nó giữa đồng trống, tía cô liều mạng đứng chạng hảng, chỉa cây K2 bắn trả. Ai dè súng trở chứng, mới bắn được một phát đã hóc kẹt cứng, không tài nào kéo được cần quy lát. Đành thúc thủ, chịu cho tụi nó trói thúc ké, liệng lên máy bay. Khi chiếc máy bay chở ông bay trờ tới bàu ấu xóm Bàu, thừa lúc mấy thằng Mỹ đang xì xồ nói chuyện với nhau, ông Ba(tía của Út), quăng mình nhảy à ra khỏi cửa máy bay. Có lẽ tụi Mỹ tin chắc là ông phải chết, thành thử tụi nó không thèm sà xuống bắt lại ông. Nhờ đó mà có người tới cứu được ông. Ngặt nỗi, cả hai cánh tay của ông đều bị gãy. Lúc đưa được ông vô xóm, may nhờ có mấy anh quân y cấp cứu mà ông thoát chết. Không có dịch truyền, anh em dùng nước dừa tơ truyền cho ông. Vậy mà ông sống nhăn mới lạ.
Uống xong, hai người vừa dợm chân đứng dậy, tính xuống ghe đi tiếp, bỗng ở đâu ập tới cùng một lúc bốn cô gái.
Cô nào cô nấy đều trẻ phơi phới như bông bưởi trên cành. Chưa vào tới quán, họ đã reo ầm lên:
- Bắt qủa tang nghen chị Út! Bắt qủa tang cặp bồ bộ đội rồi nghen!
Con gái quê đang độ tuổi rằm, đúng là cô nào cũng bừng bừng như lửa. Họ mới tràn vô quán, cái quán đang trống lổng, bỗng đầy ắp tiếng cười, tiếng nói, tiếng chọc ghẹo bông đùa. Là lính sơn pháo hơn hai năm trời mà Luân cũng phát hoảng về cách ăn nói bạo mồm bạo miệng của họ.
- Anh Út ơi! Chuyến này dứt khoát phải kiếm thằng cún con cho chúng em mừng nghen anh!
- Anh Út à! Chị Út mà làm tàng, anh cứ bỏ quách, chúng em làm mai cho. Không được, chúng em đền gấp năm gấp mười.
Cả bốn cô đều là người xóm Bàu, họ vừa dự xong lớp tập huấn tuyên truyền sinh đẻ kế hoạch ở ngoài xã về. Không hiểu họ tiếp thu giỏi cỡ nào mà ai cũng bạo dạn, đùa nghịch như qủy sứ. Cả bốn cô tranh nhau nói, tranh nhau giảng giải cho Luân và Út: “Mỗi gia đình chỉ nên có hai con. Hai con tức là hai con gái. Gia đình nào lỡ có hai thằng, thì đứt đuôi con rắn mối là thiếu mất hai nàng theo quy định. Muốn con trai, ăn mặn. Muốn con gái, ăn lạt. Ăn mặn khát nước. Ăn lạt khát muối. Uống nhiều lại lạt, ăn nhiều lại mặn. Kết qủa bù trớt cả làng. Tòi ra lủ khủ cả đống, tới cỏ cũng không có mà ăn. Tốp cái chuyện ấy lại là số dzach. Chịu không đặng thì phải dùng kỹ thuật mà tốp. Tốp bằng cách này. Tốp bằng cách kia. Như vầy nè! Như vầy nè!”… Họ vừa nói vừa ra bộ, vừa đấm ngực, đấm lưng nhau cười như nắc nẻ.
Một cô lém lỉnh tới mức dám lôi ra cả một hộp bao comdom, dúi vào tay Luân.
- Biếu anh Út để xài mấy ngày phép. Được hôn nè? Phải hôn nè? Biết hôn nè? Hổng biết, tối qua em, em chỉ cách cho. Xài tầm bậy, trớt quớt à nghen!
Trong khi Luân đứng sượng ngắt cười trừ thì Út đỏ rần cả đôi gò má. Cô vừa giả đò ngó lơ đi chỗ khác, vừa đưa cả hai bàn tay lên bụm miệng, cố nén cơn buồn cười đau thắt ruột đang giật rung đôi vai tròn trịa của cô, tấm lưng thon thả của cô. Chừng dì Chín nhắc khéo chuyện về lẹ kẻo mưa, cả đám vui nhộn mới chịu buông tha cho họ. Nhưng các cô vẫn chưa tha cho hẳn. Các cô bắt hai người phải ngồi với nhau ở giữa ghe để làm trung tâm cho ho ïthi nhau thêu dệt ra đủ thứ chuyện mùi mẫn trên đời. Chuyện nào họ cũng gắn với sinh đẻ kế hoạch. Cứ như họ thì Ông Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ, một lúc sanh cả trăm người con, là do không biết cách kế hoạch, là rất đáng… bị phê bình.
Suốt dọc chặng đường, các cô gái vui tính thi nhau kể tíu tít đủ chuyện, nhưng Luân như người mất hồn, cứ nghe xong là quên. Anh chỉ nhớ mỗi một điều: Út đang ngồi bên anh. Út cùng anh đang lướt trên dòng sông xanh biếc.
- Anh Út cứ như người mất hồn ấy(cô gái mới hồi nãy dúi cho anh hộp condom lên tiếng). Anh nhìn kìa! Đẹp qúa xá vậy kìa! Thơ mộng gì đâu vậy kìa!
Luân không hiểu cô gái muốn chỉ cho anh xem điều gì. Trên trời, một đôi chim chao lượn. Trên mặt sông, một chiếc ghe chài dập dềnh chao đảo nhè nhẹ. Dưới chiếc mui che bằng nan tre lợp dừa nước tùm hụp, hai vợ chồng trẻ ngồi ăn cơm. Cạnh họ, đứa con trai chừng ba tuổi đang say ngủ. Chú cún con nằm ghếch đầu nhìn
Một góc yên ả của miền quê thơ mộng.
CÒN TIẾP....
HỒ TĨNH TÂM
© Cấm trích đăng lại nếu không được sự đồng ý của Tác Giả và Việt Văn Mới - Newvietart.