TÁC GIẢ
TÁC PHẨM







. Tên thật : Trần Thị Thu Vân .
. Chào đời tại Huế, lớn lên tại Sài Gòn.
. Trước 1975 sinh sống tại Đà Lạt.
. Hiện đang ở San José, Californie, USA.

TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN

. Nước Chảy Qua Cầu (Bút Ký)
. Gã Cùi và Miếng Dừa Non (tập truyện)
. Một Truyên Dài Không Có Tên (I, II - tâm bút)
. Nhật Nguyệt Buồn Như Nhau (I, II -tự truyện)
. Tài Hoa Mệnh Bạc (I, II, III, biên khảo tiểu sử danh nhân)
. Trần Sa (tự truyện)
. Tài Hoa và Cô Đơn Như Một Định Mênh (tuyển tập tâm bút)
. Con Tằm Đến Thác Vẫn Còn Vương Tơ (tuyển tập tâm bút)
. Điệu Múa Cuối Cùng Của Con Thiên Nga (I, II, tuyển tập tâm bút)
. River of Time (bản Anh ngữ của Nước Chảy Qua Cầu, Trần Thy Hà chuyển dịch)














Tranh của cố họa sĩ Tạ Tỵ






(Trích "NƯỚC CHẢY QUA CẦU" )


Nếu còn đi hoài, biết đi về đâu?





"Bút ký NCQC của Trần Thị Bông Giấy đã từng được một NXB tên tuổi ở Tp Hồ Chí Minh đề nghị mua bản quyền in ấn. Dù sự việc không thành nhưng tác giả vẫn giữ nguyên bản đã được NXB này lược duyệt khi cho phép ban biên tập đăng tải trên Newvietart."




TỰA

Từ những ngày tháng mà cuốn bút ký Nước Chảy Qua Cầu chưa có tên gọi và còn là bao mẩu tâm sự, bao suy nghĩ, cảm xúc trùng trùng của kỷ niệm được ghi nhận lại bởi từng mảng thời gian bềnh bồng trôi giạt, tôi đã đắm chìm trong một không khí huyền hoặc, mê say và cảm động qua lời kể của Trần Thị Bông Giấy về đoạn đời năm năm phiêu bạt của nàng trong tư thế một nghệ sĩ vĩ cầm của một đoàn Cải Lương lưu diễn đó đây trên khắp quê hương, từ sau tháng 11/1975.

Tất cả những điều được kể hoàn toàn là chuyện thật, tại sao lại tạo ra được cái không khí huyền hoặc mê đắm đó? Đất nước Việt Nam sau cuộc chiến tranh dài, tình trạng hỗn mang dâu biển bủa lên mọi cảnh đời. Nhưng trong mắt nhìn từ một tâm hồn mong manh mà hùng tráng của người nghệ sĩ, và xuyên qua những hỗn mang dâu biển đó, Trần Thị Bông Giấy đã nhận ra một thứ hạnh phúc thật kỳ dị: “Ly cà-phê sáng ở một thị xã buồn tênh xa lạ như là một miền cuối cùng của trái đất. Những bữa rượu nửa đêm về sáng sau giờ trình diễn với các người bạn nhạc sĩ khác trong đoàn. Bà cụ già bất hạnh bê từng hũ rượu đi bán dạo. Phiên chợ âm hồn bắt đầu họp vào lúc nửa đêm nơi một làng quê Việt Nam. Người bạn cũ gặp lại trong một thị trấn buồn tênh xa lạ. Người đàn ông ngồi uống rượu một mình trong không gian mờ ảo của chiếc quán khuya, bối cảnh thời đại như nhuộm lên thân hình ông sự cô đơn khốc liệt của một kiếm khách trên đường gió bụi...”

Mỗi mẩu chuyện là một viên ngọc đối với Trần Thị Bông Giấy. Gom tất cả những viên ngọc đó lại, Trần Thị Bông Giấy làm thành xâu chuỗi ngọc khác thường cho chính mình. Bởi đó, khởi đi từ những tâm sự được kể, những kỷ niệm nuối tiếc được nâng niu, tôi đã đề nghị Trần Thị Bông Giấy viết lại thành một quyển sách, một quyển bút ký. Biết đâu lại chẳng có người cũng muốn được chia xẻ với tác giả những hình ảnh, những mẩu chuyện tuy rằng đã có sẵn, luôn hằng hằng rải rác trên khắp cùng sông nước Việt Nam, nhưng cho dù đã sinh ra và lớn lên ngay trên quê hương mình, chắc hẳn trong chúng ta mấy ai đã được nghe, được thấy? Nhất là nghe, thấy từ vị trí một người nghệ sĩ phiêu bạt từ sau cuộc biến động lớn của quê hương?

Thời gian trôi đi. Đời người trôi theo dòng thời gian để mà lạc loài đến những không gian cũng biến động trong từng giây từng phút. Tương quan giữa con người với con người, giữa con người với thời gian và không gian thật là chặt chẽ. Đó là sự cùng trôi đi và mất tăm. Như nước chảy qua cầu. Tôi nghĩ, viết quyển bút ký này, Trần Thị Bông Giấy trước hết muốn giữ cho chính nàng, muốn làm không gian và thời gian ngưng đọng lại, để trong không gian và thời gian đó vẫn còn nguyên những người, những cảnh, những chuyện của kỷ niệm hiện tại và của cả một đời. Vì thế, văn chương không phải là mục tiêu khởi đầu của Nước Chảy Qua Cầu, của Trần Thị Bông Giấy. Văn chương chỉ tự nó thành tựu ở lúc tâm sự, kỷ niệm được tác giả viết xuống thành chữ, thành câu, sau khi đã là những chuyện kể. Những chuyện kể bềnh bồng trôi giạt...

Trần Nghi Hoàng

4 giờ sáng ngày 12 tháng 8 năm 1989

INTRODUCTION

The United States has gone through many stages in its attempt to come to terms with the legacy of the Việt-Nam War. In the immediate aftermath of the war, there was disbelief, anger, fingerpointing and grief. Then, for a while, there was silence. The pain of confrontation was repressed, delayed --but it could not be eliminated.

In order for healing to take place, we had to begin the processes of both individual soul-searching and a collective national conversation on Việt-Nam.

First in a trickle, then a torrent, writers and filmakers began to struggle with the issue of the war. Particularly through the medium of film, the issue was once again raised in public consciousness. The silence was replaced by dark, often wrenching films, The Deer Hunter, Coming Home, Platoon, Full Metal Jacket, each in their own way trying to struggle with the meaning of the war and its aftermath. For the most part, however, the pens and the cameras have belonged to Americans. We have never really heard the stories, the poems, and the cries of the Vietnamese people. As great a physical and psychic toll as the war took on the United States, the suffering of the Vietnamese was immeasurably greater. Its land, the precious earth from which the Vietnamese draw food and strength, is still pock-marked with craters, filled with mines and slowly recovering from the assault of poisons. Over a million people, many of them noncombatants, were killed. Prosthetic limbs are a common sight. And yet we have not really heard the people of Việt-Nam speak.

There is still another problem. To most Americans, "Việt-Nam" means "The Việt-Nam War". Because Việt-Nam has always been an object to us, a painful part of our story, its relevance is usually seen in terms of the twenty years of violence and mutual distrust that marked the relationship from the 1950's to the 1970's.

However, even if we see Việt-Nam simply in terms of war, we must realize that the Việt-Nam war was a war that extends back to the 50 years struggle with the French that began in the mid-19th century, and still further back to Việt-Nam's ongoing attempt to preserve its own identify in the face of a Chinese influence that was, by turns, philosophical, political, cultural and often military. In the words of one scholar, it has been a "2,000 year struggle".

Although war has had an enormous impact on Việt-Nam, Việt-Nam is much more than a battleground, a fact that many Americans are only beginning to discover. It is a country with a history of its own, a culture that has produced beautiful poetry and literature, and as we learn from the author, a musician able to bring notes to life through written words, rich traditions of music and opera.

Việt-Nam is also land, rice paddies and bustling cities, farmland and villages. And most of all, it is its people. People who are both in Việt-Nam rebuilding their country and their lives; and people who are scattered across the globe feeling, in varying degrees, either like citizens of new lands or an exiled people still waiting to return home. In order to understand, we must begin listening to their voices. Trần Thị Bông-Giấy's is a beautiful voice with which to begin this journey. Her perspective is shaped by time spent in three places, three cultures intertwined in a tragic story, now struggling to find reconciliation, Việt-Nam, France and the United States. Trần Thị Bông Giấy is an author who doesn't spend much time on explicit political statements, diatribes, arguments or theory. She is very much a writer of the particular and concrete, not the general and abstract.

Here is an intimate journal of meals shared and concerts remembered, of conversations, images, personal encounters --open this journal and both Việt-Nam and France come to you in all of their sights, sounds, textures and smells. She brings to us numerous people whose lives have been shaped, in many different ways, by the conflict. We see connections being made across cultural boundaries just as we see the divisions that still exist within them --Vietnamese, like Americans, still split passionately over the war. Her diary is filled with stories and characters that stay with the reader long after the book is put away.

The author's experience of Việt-Nam is particularly revealing, for she is describing the world she was away from for years and then returned to. There is an extra vividness that comes out of seeing one's old home with new eyes --it makes the experience both richer and more painful. But there are really two journals here --for she not only shows us Việt-Nam through the eyes of one who has returned, she also gives to us the experience of a Vietnamese making a life in Europe.

The author's personality shines through in the book. She is a fiercely proud and deeply sensitive woman; she is a person of tradition facing a world of change and uncertainty. Above all, she is an artist, and her words can be so lyrical that the line between prose and poetry begins to disappear.

In conversation, as in music, it is often the quiet but strong voice that holds one's attention. Trần Thị Bông Giấy's is such a voice. Slowly, through a moving story or memorable character here, a reflection on a poem or thoughts about an opera there, the motifs are woven; the piece comes together as a whole. The effect builds up as you keep reading, until you feel you have come to know this person and her country better.

True understanding can never occur between a subject and an object. It only emerges between two subjects. In order to understand the Vietnamese people, people whose lives are intertwined with ours, we must not simply talk about them --we must genuinely listen to them. We are very fortunate, then, that Trần Thị Bông Giấy's book has been translated into English-- and that the translation was done with such skill and sensitivity by her brightest former piano student, a twenty-year-old who is so close to her –Trần Thy Hà.

The book teaches us again an important lesson about literature --that while it is always about the unique and particular, it also speaks universally to all human beings; for in the voice of another, we hear back, in a new and powerful way, our own speaking about loss, struggle, and hope.

MARK BERKSON

PhD., University of San Francisco

SF. May 1998

LỜI GIỚI THIỆU
(TTBG chuyển ngữ)


Nước Mỹ trải qua nhiều giai đoạn trong sự cố gắng đặt để một thỏa thuận liên quan tới cuộc chiến Việt Nam. Trong cái hậu quả tức thời của chiến tranh, đã xảy ra rất nhiều những nỗi hoài nghi, giận dữ, đổ thừa và đau khổ. Sau đó, trong một lúc, là sự yên lặng. Nỗi đau đớn chạm trán được kềm nén, chậm hoãn -nhưng không phải là loại bỏ.

Để hàn gắn những mất mát thua thiệt tạo ra từ sau cuộc chiến, chúng ta phải bắt đầu tìm hiểu về cả hai phía tâm hồn cá nhân và những đàm luận chung trên vấn đề VN.

Thoạt tiên, với một tia nhỏ, và rồi cả một dòng nước lũ, những nhà văn và những đạo diễn khởi sự vùng vẫy với đề tài chiến tranh Việt Nam. Đặc biệt, qua môi trường phim ảnh, cái đề mục này lần nữa dậy lên trong ý thức hiểu biết quần chúng Mỹ. Sự im lặng được thế chỗ bằng những cuốn phim bi quan, đen tối, thường xuyên bóp méo sự thật (như The Deer Hunter; Coming Home, Platoon, Full Metal Jacket...) theo một đường lối riêng để cố gắng trình bày về chiến tranh Việt Nam và cái hậu quả của nó. Tuy nhiên phần lớn, những cây bút và phim ảnh đều thuộc về phía người Mỹ. Chúng ta chưa bao giờ thực sự được nghe những mẩu chuyện, những bản văn và tiếng kêu gào của người Việt Nam. Mọi thống khổ về thể chất và tâm lý do chiến tranh gây ra cho nước Mỹ thật sự đã không thể so sánh với những thống khổ mà người dân Việt Nam đã phải nhận chịu. Xứ sở của họ, vùng đất yêu dấu mà họ đã rút ra thực phẩm và sức mạnh thì vẫn còn bị rỗ hoa với các hố bom đại bác, những mìn đạn; và đang chậm chạp phục hồi từ sau các cuộc tấn công của chất độc.

Hơn một triệu người Việt Nam --trong số có rất nhiều người không từng tham gia quân đội-- bị giết. Những tay chân nhân tạo được lắp ráp là một cảnh tượng rất thường. Dù thế, chúng ta chưa từng thực sự được nghe tiếng nói của người Việt Nam về những điều như thế. Hơn nữa, lại còn có một vấn đề khác. Với đa số người Mỹ, “Việt Nam” có nghĩa là “Chiến Tranh Việt Nam”, bởi vì Việt Nam luôn luôn là một đối thể của chúng ta, một phần đau khổ của lịch sử nước Mỹ, biểu tượng bằng hai mươi năm chiến tranh dữ dội và sự ngờ vực lẫn nhau, xảy ra từ thập niên 50 tới thập niên 70.

Tuy nhiên, nếu chỉ đơn giản nhìn về Việt Nam qua hai chữ chiến tranh thì chúng ta phải nhận thực rằng cuộc chiến ấy đã kéo dài từ trước trong suốt 50 năm chiến đấu với người Pháp vào giữa thế kỷ 19, và còn lùi xa hơn trên những cố gắng duy trì các đặc tính riêng của nó trong sự đương đầu với ảnh hưởng Trung Hoa lần lượt trên đủ mọi mặt triết lý, chính trị, văn hóa và thường xuyên là quân đội. Theo lối nói của một học giả thì đó là một “cuộc chiến dài hai ngàn năm.”

Dù rằng chiến tranh đã gây nên một ảnh hưởng rất lớn trên Việt Nam thì đó không chỉ là một bãi chiến trường thôi mà còn là một nơi chốn lôi cuốn sự khám phá của rất nhiều người Mỹ. Một xứ sở với một lịch sử, một nền văn hóa riêng đã sản xuất ra những vần thi ca, những áng văn chương đẹp và những truyền thống phong phú về âm nhạc, kịch nghệ; điều mà chúng ta đã biết từ tác giả, một nhạc sĩ có khả năng mang những note nhạc vào đời sống qua ngã văn chương. Việt Nam cũng còn là một vùng đất với những ruộng lúa, những thành phố náo nhiệt, các nông trại và các làng xóm. Nhưng hơn hết, là con người Việt Nam. Những con người ở cả hai phía đang xây dựng lại quê hương và đời sống họ ngay trên xứ sở, và những con người tản mác ra trên toàn thế giới ở nhiều mức độ khác nhau, sống, như những công dân của vùng đất mới hoặc như những kẻ bị lưu đầy đang chờ đợi ngày trở lại quê hương. Để hiểu họ, chúng ta phải lắng nghe tiếng nói họ. Tiếng nói Trần Thị Bông Giấy là một tiếng nói đẹp biểu tượng qua cuốn bút ký này. Cái nhìn của tác giả được gọt bén bởi thời gian trải qua trên ba vùng đất -Việt Nam, Pháp và Mỹ-; ba nền văn hóa cuộn lẫn vào nhau, bây giờ đang tranh đấu để kiếm tìm một sự hòa hợp, qua một tác phẩm xúc động.

Trần Thị Bông Giấy đã không phí nhiều thì giờ trên những vấn đề về chính trị, những lời công kích dữ dội, những bàn cãi hay lý thuyết; mà chính là một nhà văn của sự thực tiễn và rất đặc thù, chứ không là của sự trừu tượng mơ hồ và đại thể.

Đây là một cuốn nhật ký thân mật nói về các bữa ăn được chia xẻ với nhau, những ký ức gợi lại theo các cuộc trình diễn, các mẩu chuyện trao đổi, các hình ảnh và các cuộc gặp gỡ cá nhân –mở cuốn bút ký này ra, cả hai vùng trời Việt Nam và Pháp cùng hiện ra trước mắt bạn với tất cả mọi cảnh tượng, những âm thanh, những xếp đặt và mùi vị của chúng. Tác giả đã mang đến cho chúng ta hàng loạt con người mà đời sống họ đã được va chạm và hình thành trong nhiều đường lối. Chúng ta nhìn thấy những liên hệ được cấu tạo suốt qua các ranh giới văn hóa, như thể nhìn thấy những phần đoạn còn tồn tại bên trong con người họ –người Việt Nam, cũng như người Mỹ, vẫn bị phân hóa một cách sôi nổi theo đề tài chiến tranh. Dầu vậy, cuốn bút ký Nước Chảy Qua Cầu với đầy những câu chuyện và các nhân vật sẽ lưu lại lâu trong lòng độc giả sau khi cuốn sách đã được gấp.

Những hiểu biết của TTBG về Việt Nam thì rất đặc sắc bởi vì tác giả đã trình bày một nơi chốn đã lìa bỏ nhiều năm rồi mới trở lại với nó. Có một sự sống động cực độ của một con người trong cái nhìn mới về một quê hương cũ-- điều vừa tạo thành cho tác giả một sự hiểu biết phong phú, đồng thời cũng là nỗi đau thương càng mạnh mẽ hơn. Ở đây, thực sự là có hai cuốn bút ký –bởi vì tác giả không chỉ phơi bày một nước Việt Nam qua đôi mắt của một kẻ đang trở về chốn cũ, lại còn cho chúng ta những hiểu biết về một công dân Việt Nam đang chấp hành một cuộc sống mới ở Âu Châu.

Cá chất nhà văn sáng tỏ suốt qua tác phẩm. Tác giả là một người cực kỳ kiêu hãnh và rất nhậy cảm. Một phụ nữ Việt Nam truyền thống đối diện với một thế giới đang thay đổi và không chắc chắn. Trên tất cả, Trần Thị Bông Giấy là một nghệ sĩ, và chữ nghĩa được dùng trữ tình đến độ những hàng viết giữa văn chương và thi ca biến mất cả đi.

Sự đối thoại trong văn chương –cũng giống như trong âm nhạc- đã thường xuyên có ẩn chứa một tiếng nói câm lặng nhưng rất mạnh mẽ, nắm bắt sự chú ý của độc giả. Tiếng nói của Trần Thị Bông Giấy đúng là tiếng nói như thế.

Dần dà, chỗ này là một câu chuyện cảm động hay một gợi nhớ về một nhân vật, chỗ kia là sự trầm ngâm suy nghĩ theo một bài thơ hay một buổi trình diễn nhạc kịch..., những chủ đề cứ thế đan thắt vào nhau, những mảnh đoạn cứ vậy kết hợp với nhau thành là một. Cái hiệu quả này cứ dâng lên mãi khiến bạn không thể ngừng đọc cho đến khi hiểu được rõ ràng về tác giả và xứ sở Việt Nam.

Sự thấm hiểu không bao giờ có thể xảy ra giữa một đối thể với một chủ thể, mà chỉ là giữa hai chủ thể. Để hiểu thực sự về người Việt Nam, những con người mà cuộc sống của họ đã từng cuộn quấn vào với chúng ta, chúng ta không thể chỉ trình bày đơn giản về họ, mà còn phải nghiêm trang lắng tai nghe họ. Với điều này, chúng ta đã rất may mắn bởi vì tác phẩm đã được dịch sang Anh ngữ một cách khéo léo và đầy xúc cảm bởi người học trò dương cầm sáng giá nhất của tác giả, một thiếu nữ 20 tuổi rất gần gũi với tác giả -Trần Thị Như Hà.

Tác phẩm đã dạy cho người Mỹ chúng ta một bài học quan trọng lần nữa về văn chương –cái điều không phải chỉ nói về sự đặc thù hay cá biệt thôi, mà còn trình bày rộng rãi ra với tất cả mọi người-- bởi vì từ tiếng nói kẻ khác, chúng ta có thể nghe lại được, bằng một đường lối mới hữu hiệu hơn, tiếng nói của chính chúng ta về sự thua thiệt, đấu tranh và niềm hy vọng.

MARK BERKSON

Tiến sĩ, Ðại học San Francisco.

San Francisco, May 1998.



BÀI 5

PHẦN THỨ VI


Paris. Một đêm mùa đông tuyết rơi trắng xóa, một anh bạn trong hội cựu quân nhân Việt Nam mời tôi cùng một nhóm bạn quen đến nhà anh dùng cơm. Tại đây, tôi gặp thêm ba người Việt Nam khác, hai nam một nữ, nói giọng Hà Nội. Anh bạn chủ nhà giới thiệu với tôi cả ba đều là bác sĩ, đến từ “bên kia giới tuyến” (lời anh bạn). Sau chuyến tu nghiệp ở Tiệp Khắc, họ trở về Việt Nam, ngang qua Paris phải đổi chuyến bay và phải ngủ tạm một đêm ở khách sạn phi trường. Vì không đủ tiêu chuẩn mướn phòng ngủ nên họ ngồi lại với nhau một góc nơi phòng đợi. Anh bạn chủ nhà của tôi khi ấy đang làm bồi phòng tại khách sạn, biết chuyện, bèn mời họ về nhà ngủ qua đêm, ngày mai đáp chuyến bay thẳng về Hà Nội. Cả ba đều trong cỡ tuổi từ ba mươi lăm đến bốn mươi.

Buổi tiệc đêm ấy bỗng dưng biến thành đặc biệt. Nhóm ba người Miền Bắc trở nên là cái đích tấn công của bảy người Miền Nam. Chỉ riêng tôi và anh bạn chủ nhà là không đồng ý với thái độ thù hiềm không đẹp ấy. Vì vậy, anh cố dùng đủ mọi cách để màu sắc chính trị không bị pha trộn vào cuộc trò chuyện của hai nhóm Bắc-Nam.

Anh bạn chủ nhà của tôi là một Đại úy Pháo Binh ngày cũ. Năm 1983, sau khi đi “học tập” về, anh vượt biên đến đảo Mã Lai, được người vợ đi từ 1977 bảo lãnh sang Pháp. Qua đến nơi, anh mới hay rằng người xưa nay đà ôm cầm sang thuyền khác. Hai đứa con nhỏ giao lại cho anh nuôi, dấu tích duy nhất còn lưu lại trong cuộc đời chồng vợ của anh.

Buổi tiệc đêm ấy, anh ngồi bên cạnh, nói nhỏ với tôi: “Mối hờn vong quốc dĩ nhiên là không quên được; nhưng dù sao những vị khách này cũng chỉ là một thứ nạn nhân như bọn mình. Họ đâu thể làm gì khác khi phải sinh ra và lớn lên trong Miền Bắc. Công kích họ làm gì thêm tội!” Tôi gật đầu đồng ý quan điểm ấy của anh. Nghe anh nói tiếp: “Biết đâu họ cũng có những hoàn cảnh đau thương như bọn mình đã trải? Kết luận làm gì một điều mình chưa hiểu rõ. Vấn đề chỉ là ‘cái nhìn’ duy nhất. Bây giờ mình nhìn họ là những kẻ đang cần một mái nhà để trốn lạnh, một chiếc giường để ngã lưng, thay vì ngồi bó gối nơi phòng đợi phi trường, nhìn tuyết rơi trắng xóa bên ngoài khung kính. Bấy nhiêu, tôi nghĩ là đã đủ để những gì liên quan đến chính trị khỏi cần phải đặt ra ở đây.”

Tôi nói, anh làm tôi ngạc nhiên bởi không nghĩ rằng sau những tháng năm tù đày và những cay nghiệt gặp phải trên bước đường chồng vợ mà anh còn có được tấm lòng dạt dào như thế. Anh cười: “Có lẽ nếu không từng kinh qua những niềm thống khổ, chắc ngày nay tôi vẫn còn cái nhìn quá khích cực đoan như nhiều anh em khác mà thôi.”

Đầu tháng 2/1979. Trở về Sàigòn.

Chuyến lưu diễn Bến Tre gần hai tháng ròng đã chấm dứt. Tôi nghe xúc động vô bờ khi nhìn lại căn nhà màu gạch đỏ với các người thân. Mười năm dài phiêu bạt, lần đầu tiên tôi mới thực sự thấy gia đình là nơi cần thiết. Mười năm lang thang từ thành phố này qua thành phố khác với nỗi cô đơn chưa một lần gục ngã, với tuổi trẻ sôi nổi, cương quyết, vậy mà đến một lúc nào như hôm nay, tâm tư lắng lại, tôi chợt thấy mình yêu biết bao căn nhà đã sống từ khi còn bé có cả một kho tàng kỷ niệm ngủ yên dưới lớp bụi thời gian. Tôi nghe an tâm khi ẩn mình trong ấy. Nghe những buổi chiều mây xám giăng đầy trôi đi êm đềm trong căn bếp ấm thân yêu.

Mười năm và một định mệnh nhiều giông bão, những chuyến khởi hành cô đơn, những dòng nước mắt lặng lẽ... đã cho tôi được một cái nhìn về hạnh phúc như ngày hôm nay. Hạnh phúc gói lại, đơn giản, nhẹ nhàng trong phạm vi một mái nhà bé nhỏ, trên ánh lửa chập chờn của căn bếp rộng mỗi bữa cơm chiều. Hạnh phúc cũng chan hòa trong đôi mắt thiết tha của người em nhỏ, trên khuôn mặt của bà mẹ già có mái tóc bạc phơ, có giọng nói mềm mỏng, dịu dàng như dòng sông Hương thương nhớ.

Trong vườn tôi, hoa phù dung mới nở

Ngày rất hồng và chim hót rất thanh

Cửa nhà ai sáng nay vừa mới mở

Người trở về gọi mẹ, gọi tên em...(1)

Cánh cửa của căn nhà màu gạch đỏ cạnh bên gốc ổi trụi lá mùa đông có khi còn đóng kín, nhưng vòng tay và trái tim người mẹ hiền thì lúc nào cũng mở rộng để đón chờ một bước chân hoang.

Paris. Bên cạnh căn nhà tôi ở là một biệt thự xinh xắn của một cặp vợ chồng già người Pháp. Bà vợ đã ngoài sáu mươi nhưng trông khoẻ mạnh rất nhiều so với tuổi. Tính tình bà vui vẻ dễ chịu. Mỗi lần gặp tôi, bà đều chào hỏi rất niềm nở. Điều làm tôi lạ lùng là bà nhai trầu bỏm bẽm y hệt các bà cụ già người Việt. Môi bà đánh son đỏ thắm, nhưng màu đỏ của vôi quyện với trầu trong miệng e còn thắm tươi nhiều hơn. Mỗi lần có dịp đứng gần bà là tôi nghe nồng nàn nơi mũi một thứ mùi vô cùng ấm áp. Thứ mùi vừa dìu dịu của nước hoa trộn lẫn mùi trầu cau thơm ngát của quê hương tôi.

Một lần tôi nghe bà kể, thuở xưa theo chồng sang Việt Nam làm đốc học ở Huế, bà có mượn một người đàn bà Việt Nam về làm vú em cho đứa con nhỏ hai tuổi. Ban ngày đứa bé chơi rất dễ chịu; nhưng cứ đêm là lại khóc đến khan cả cổ. Chẳng ai hiểu tại sao. Người ta cho gọi bà vú vào. Lạ thay, đứa nhỏ ngủ yên tới sáng. Thử đi thử lại, kết quả lần nào cũng đều như vậy. Sau cùng mới khám phá ra đứa nhỏ ghiền mùi trầu của bà vú già người Việt. Bữa nào vắng bà, nó trông biếng lười, không ngủ không chơi.

Thế là cô đầm xinh đẹp học cách ăn trầu, món ăn quốc hồn quốc túy của người dân bản xứ. Ban đầu, ăn trầu chỉ là để lôi kéo đứa con nhỏ lại gần mình; sau, chính cô cũng đâm ghiền cái món đặc biệt này, y hệt mọi bà già trầu Việt Nam.

Bà hàng xóm tôi cũng kể: “Ở Việt Nam ngót hơn hai mươi năm, tôi ưa thích lắm. Cái xứ gì mà thật là dễ chịu, tôi mặc nhiên xem như quê hương thứ hai của mình. Thời gian đầu mới bị tống xuất về Pháp, vì thiếu trầu cau nên tôi thật khổ sở. Mỗi lần gửi mua được từ Thái Lan, tôi quý ghê lắm.”

Bà mỉm cười: “Mỗi quốc gia có một nền văn hóa riêng. Nước Việt Nam với hơn bốn ngàn năm văn hiến, ôi chao, có biết bao nhiêu điều đáng nói! Bây giờ đã già, tôi mới hiểu tại sao tôi lại ghiền cái món trầu cau đến vậy.”

Và bà giải thích: “Không chỉ ghiền vì mùi thơm quyến rũ của nó, mà còn bởi vì nó biểu tượng được cho một khía cạnh văn hóa của dân tộc Việt Nam.”

Hát ở Tân Uyên.

Theo chỉ thị của Phòng Nghệ thuật Sở Văn Hóa và Thông Tin Thành Phố Hồ Chí Minh, đoàn phải lên hát hai ngày 23 và 24 Tết tại vùng kinh tế mới Tân Uyên, thuộc Sông Bé, một tỉnh ở miền đông Nam phần, bắc giáp nước Cam Bốt; nam giáp thành phố Hồ Chí Minh; đông nam và đông bắc giáp các tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng, Đắc Lắc; tây giáp tỉnh Tây Ninh.

Đây là đất của rừng cao su chảy dài như con sông, là “cái nôi” của chiến khu D một thời lừng lẫy. Sân khấu dựng ngoài trời. Chúng tôi được thu xếp ở trong những dãy nhà cất lên bằng ván, mỏng manh, vội vã.

Trời lạnh căm căm và có nhiều gió. Đêm tan hát, một số lớn anh em trong đoàn không ngủ, rủ nhau ra bãi đất trống sau lưng giàn sân khấu ngồi đốt lửa sưởi ấm qua đêm. Chúng tôi vây quanh khối ánh sáng lớn duy nhất trong toàn vùng kinh tế mới. Mỗi nhóm tự động nhặt nhạnh, tìm kiếm các cành khô củi mục tiếp cho ngọn lửa. Một số cùng nhau hát ca, trò chuyện. Một số vây quanh các chiếu rượu. Toàn vùng kinh tế mới lặng im trong giấc ngủ. Những người dân lam lũ suốt ngày theo nương rẫy, giờ đây thả hồn về trên những khung trời êm ái nhẹ nhàng hơn.

Ngồi chung trong chiếu rượu của cả nhóm Tân Nhạc, trên tay cầm thanh củi dài khêu cao ngọn lửa mỗi lần sắp tắt, đầu óc tôi lan man theo những cảm xúc bất ngờ khi ấy.

(…. Lược 3 dòng…)

Ngày hôm nay, chiến cuộc đã yên, nhưng tên tuổi của họ thiên thu còn vang vọng thương đau trong tâm hồn các người thân.

Tôi có người yêu chết trận Pleime

Tôi có người yêu ở chiến khu D

Chết trận Đồng Xoài,

Chết ngoài Hà Nội,

Chết vội vàng mình không manh áo...

Bài hát Trịnh Công Sơn đã làm rung động không ít trái tim non dại của tôi thời gian mới lớn. Chiến tranh với những khía cạnh bi thảm của nó đã sớm nhồi vào đầu óc tôi những cảm xúc lạ lùng.

(…Lược 5 dòng…)

Tuổi trẻ của tôi không chỉ kết nên bằng những ước mơ tươi đẹp, mà nó còn ghi dấu rất nhiều những nỗi buồn khi nhận tin một người bạn giã từ cuộc đời trên một chiến trường nào đó, mỗi lúc hay ra một người thân đã mất trong cái tuổi còn nhiều mộng mơ. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa với các hàng mộ dài đề tên các người chết trẻ cũng làm cho tôi buồn không ít. Những con người chưa có dịp hưởng thụ các thú vui ở đời đã phải vội vàng rũ áo ra đi...

Hơn mười năm trôi qua, bài hát của Trịnh Công Sơn đã chìm sâu trong ký ức thời tuổi nhỏ, không ngờ lại một đêm sống dậy dạt dào trong trí nhớ. Hình ảnh từng người bạn đã chết trong cuộc chiến năm xưa như hiện ra trên ánh lửa chập chờn. Đêm lạnh căm nơi vùng núi đồi kinh tế mới của chiến khu D một thời lừng lẫy. Đêm cũng ngập tràn trong tôi một màu đen đúa nhớ thương.

Tôi có người yêu chết trận Ba Gia

Tôi có người yêu vừa chết đêm qua,

Chết thật tình cờ, Chết chẳng hẹn hò,

Không hận thù, Nằm chết như mơ...

Paris. Tôi được mời đi dự buổi văn nghệ do một hội đoàn Việt Nam tổ chức tại Paris. Buổi văn nghệ chẳng có gì đáng nói, chỉ là sự lập lại của những màn ca vũ nhạc kịch ở phần đầu và phần sau là cuộc dạ vũ kéo dài từ nửa khuya tới gần sáng. Tuy nhiên, trong buổi lễ chào cờ, nghe ban nhạc tấu lại bài Quốc Ca và nghe những vị khách cao giọng hát theo, tôi không ngờ mình đã cảm động dường ấy.

(… Lược 1 dòng…)

Tiếng hát vang lên khắp khán phòng, át hẳn tiếng nhạc, rền rền bên tai và xoáy vào tận cuối hồn tôi những niềm rung động dạt dào ngây ngất. Bản quốc ca này, tôi thuộc lòng từ khi còn bé, vậy mà chưa bao giờ nghe thấm thía yêu thương như trong tâm trạng của một đêm đi dự buổi văn nghệ ở Paris.

“Hạnh phúc là những gì đã trôi qua” như ai đó đã viết. Thì hạnh phúc bất ngờ tôi bắt gặp lại chính là những thanh âm của dĩ vãng xa xôi đã làm tuôn trào không biết bao nhiêu cảm xúc ứ đọng lâu ngày trong trái tim câm nín. Cả một lịch sử hiên ngang ngất ngưỡng trở về. Từng triều đại đi qua rồi mất hút bỗng đứng lên sừng sững. Hồn thiêng sông núi như bừng sống dậy trên nét mặt những con người đang hiện diện; và tinh thần bất khuất ngạo nghễ của cổ nhân từ mấy ngàn năm qua cũng theo tiếng nhạc vọng lên trong khắp mọi nơi.

Có điều gì ngậm ngùi hơn tiếng lòng của những con người xa cách quê hương đang phô bày trong giai điệu một bài quốc ca dĩ vãng? Còn điều này xót xa hơn hình ảnh một nhóm người tha phương đất khách đang trang nghiêm chào lá quốc kỳ của một chính thể đã đi vào bóng tối xa xăm?

Vậy mà, chỉ với ba phút cử hành bài Quốc Ca, tâm trạng tôi biến chuyển không ngừng biết bao cảm xúc. Mối sầu ly biệt quê xưa bao trùm khắp cả khán phòng, len vào trong từng sớ tim, để tôi hiểu rằng không còn một bài ca nào khác trên đời tạo cho tôi nhiều rung động hơn bài Quốc Ca tôi đã được nghe lại một đêm giá rét ở Paris.

Sàigòn, tháng 2/1979.

Đoàn nghỉ hát từ 25 tháng Chạp để chuẩn bị mừng năm mới. Chúng tôi được lệnh mồng Ba Tết sẽ lên đường lưu diễn Miền Đông.

Năm ngày không hát, tôi cỡi xe đạp vòng vòng phố xá thăm bè bạn. Lại biết thêm những người bạn bỏ đất nước ra đi. Cũng thêm những người bạn đã chết. Chuyến ghe dài 7 mét của nhóm bạn tôi, ra khơi từ Cửa Đại, Bến Tre vào tháng trước, đã chìm lỉm dưới những cơn sóng bạc đầu. 13 người chết. Chỉ một người sống sót, trôi vật vờ suốt đêm trên sóng; sau, được tàu quốc doanh vớt lên.

Đêm 30 Tết, nơi chiếc quán dốc cầu Trương Minh Giảng, tôi và hai người bạn ngậm ngùi ôn lại chuyện xưa. Trời có gió lạnh ngan ngát. Mùi bùn từ dưới gầm cầu bốc lên tanh ói. Tôi nghĩ đến những người bạn đã chết. Nghĩ đến những kỷ niệm vẫn có với họ ngay nơi chiếc quán này. Đêm 30 năm xưa, chúng tôi còn ngồi với nhau, uống từng cốc rượu và uống cả nỗi suy nghĩ của nhau. Bạn bè chia thành hai nhóm chủ trương: ra đi và ở lại. Nhóm này đả kích nhóm kia, hăng say kịch liệt; để rồi khi giao thừa đến, vẫn nâng cốc chúc mừng nhau thêm một tuổi đời mới.

Đêm 30 năm nay, phần lớn nhóm bạn ngày nào đã vùi thây dưới biển. Cơn mộng vỡ tan rồi. Cảnh cũ còn đây mà người xưa đi đâu mất? Có còn chăng chỉ là nỗi ngậm ngùi rơi xuống trên những người ở lại, đêm 30 ngồi khóc bạn bằng những ly rượu đắng giữa một giòng đời đang vội vã đón chào Xuân...

Đâu đây, tiếng pháo giao thừa bắt đầu nổ vang lên.

[]

CÒN TIẾP ...




© Cấm trích đăng lại nếu không được sự đồng ý của tác giả .



TRANG CHÍNH TRANG THƠ ĐOẢN THIÊN BIÊN DỊCH HỘI HỌA ÂM NHẠC