KỲ THỨ 3
Ô
ng Nhậm là người uyên bác. Gặp được ông, Củng hiểu thêm cái tầm văn hoá của người Việt mình. Cái tầm ấy cho ta khí phách mà thắng Mỹ. Hồi đó chiến tranh liên miên, cả miền Bắc sôi lên với khẩu hiệu "Mỗi người làm việc bằng hai. Tất cả vì miền Nam ruột thịt", vậy mà sáng nào cũng thế, ông Nhậm vẫn nhẩn nha ngồi thưởng trà. Không hiểu sao cứ nhìn ông uống trà, bên cạnh là cô cháu gái rượu xinh đẹp, Củng có cảm giác hoà bình đến nơi rồi. Nghe ông nói chuyện về văn hoá trà, Củng mới hiểu người Việt mình cũng nho nhã chả kém gì người Tàu. Ông gọi Quyên, cháu gái yêu vào ngồi cạnh Củng, bảo:
- Buổi sáng, khi trời đất tranh tối tranh sáng, đó là thời điểm âm dương giao hoà. Nếu vận động thần khí lúc này là có lợi cho sức khoẻ con người lắm. Bởi khi vận động nó bài tiết hết chướng khí tích tụ trong người, thay vào không khí trong lành lúc ban mai. Uống trà vào lúc này là để giữ cho thần khí được sáng suốt minh mẫn. Đây cũng là thời điểm tĩnh lặng có thể phát tiết ra cái thần thái linh thiêng, những ý nghĩ đúng đắn sẽ nảy sinh ra lúc này các cháu ạ.
Bộ đồ trà của ông gồm có một ấm để pha trà, một chén tống, một chuyên, bốn chén quân, một đĩa thành giầm, một chiếc khay, một hoả lò và chiếc ấm đun nước bằng đồng tụ.
Thông thường một bữa trà ông dùng nhất tống, tam quân. Nghĩa là một ấm, ba chén và dùng theo mùa. Đông ẩm ông dùng chén, ấm mang dáng khẩu mía, cao thành và dày sao cho nằm gọn trong lòng bàn tay. Hạ ẩm ông dùng chén thấp, choãng, mỏng hơn. Xuân, thu ẩm thì dùng chén hình quả nhót. Trôn chén đều có chữ "Thành Hoá niên chế" hoặc: "Khang Hy niên chế". Ông bảo thế mới quý. Khay là loại chân quỳ, gỗ trắc hay gỗ mít, hình quả đào. Bình đựng trà làm bằng sứ, nút lá chuối khô. Thông thường, ấm trà khi tháo bã rồi, không được kỳ sạch làm mất cao bám ở thành ấm, khi pha trà uống sẽ không đậm.
Bàn trà của ông, tối đa chỉ đến ba người uống để hạn chế tạp khách, mất đi ý nghĩa linh thiêng, tĩnh lặng, tao nhã của bữa trà. Ngồi uống trà với ông đều là người có tâm hồn đồng điệu, hoặc tri âm, tri kỷ.
Ông Nhậm nói:
- Bí quyết pha trà chung quy lại có bốn yếu tố: Nhất thuỷ, nhị trà, tam pha, tứ ấm. Nghĩa là, nước phải là nước mưa, nếu nước giếng thì giếng đá ong, không có mùi bùn và được đun sôi kỹ. Trà phải là trà búp nhỏ, săn, sao tẩm đúng quy cách. Muốn có loại trà đó, khi tưới cây chè phải dùng nước giải ngâm đỗ tương pha lo•ng, thì cây mới cho lá dày và mướt. Sau đó phải biết cách cất chè. Trà đã sao rồi gói vào từng gói 100 gam bằng 10 lớp giấy bản, cho vào trong hũ sành, nắp bằng gỗ gắn xi cẩn thận, đem treo dưới giếng đá ong từ năm đến sáu năm, khi lấy lên trà vẫn khô cong, thơm mùi cốm non, có thoảng vị ngòn ngọt và mùi đỗ xanh. Trà đó mới thật là quý. Khi pha trà thì phải rót nước sôi tráng ấm cho kỹ, tưới đều nước sôi lên chén. Sau đó cho trà vào ấm, rót nước sôi để vài phút rồi chắt hết nước trà trong ấm ra chuyên. Phải chắt hết để trà khỏi chín nhừ, sẽ nồng. Từ chuyên rót ra chén quân để uống. Nếu uống nữa thì rót tiếp nước sôi vào ấm.
Ông Nhậm nâng chén trà lên chiêu một ngụm vẻ sảng khoái, rồi đặt chén xuống, nâng chiếc ấm màu gan trâu lên ngang mặt ngắm, nói:
- ấm là yếu tố cuối cùng... Thứ nhất Thế Đức gan gà. Thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần. Các cháu biết không? Màu ấm một là màu gan trâu như cái này, hai là màu gan gà, ba là màu chu sa. Chu sa là quý nhất. Hình dáng ấm cũng quan trọng. Có loại hình trái lê, có loại trái cau, trái hồng. Quý hơn cả là hình bánh xe và tang trống. Thường ấm ở ta có bốn loại: Ngưu ẩm, quân ẩm, song ẩm và độc ẩm.
Đặt chiếc ấm xuống bàn, ông bảo Quyên chiêu thêm nước vào chuyên. Rồi ông vuốt chòm râu bạc, mắt như bay vào trời xa, gật gù:
- Trà Việt Nam mình là dược liệu quý. Lúc thảnh thơi ta nhấp một chén trà, gân cốt như được thư giãn, phiền muộn nhọc nhằn phần nào được hoá giải, đầu óc cảm thấy tỉnh táo, hưng phấn... Uống trà còn có ý nghĩa nhân văn và tâm linh nữa. Nó trọng chân, trọng thực và trọng cái hay cái đẹp, các cháu ạ. Nó thể hiện tâm hồn, tình cảm và nhân cách của người Việt Nam chúng ta. Đừng coi trà như một thứ nước thông thường uống cho đã khát mà ta thành tầm thường.
Nghe ông Nhậm giảng, Củng lại nhớ cha cũng đã có lần ngồi uống trà đàm đạo với bạn bè. Theo quan niệm của cha, trà là món quà tình cảm của con người. Từ những cuộc tiếp khách quan trọng của quốc gia, đến hội nghị, hội hè, đình đám, từ thành thị đến nông thôn và trong mỗi gia đình khi có khách đều phải mời trà. Mời trà như một lễ nghi. Trà còn giữ vai trò giao lưu giữa các tầng lớp trong xã hội, không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng, đẳng cấp. Chén trà mời nhau đã làm mọi người xích lại gần hơn, xua đi những mặc cảm, giận hờn, làm mọi người sống với nhau thân ái hơn, thánh thiện hơn. Trà còn để làm quà tặng, lễ lạt cầu phúc, trong cưới xin, chúc phúc, v.v...
Ông Nhậm chợt lặng, đôi mày hơi chau lại vì ở phía thị xã Hải Dương vừa vọng đến tiếng bom rền của giặc Mỹ. Sau cái chíu mày ấy, miệng ông lại nở ra ngân nga:
- "Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh sổ chản trà
Nhật tân ư như thử
Lương y bất đáo gia".
Cụ giải thích:
- Nghĩa là:
"Canh khuya ba chén rượu
Sớm mai một tuần trà
Mỗi ngày mỗi được thế
Thầy thuốc không đến nhà"...
*
Chị Mạ ở ngoài đồng về đ• thấy chiếc xe đạp mini màu xanh canh ngoài cửa. Chiếc xe quen thuộc luôn chở lòng từ thiện đến cho mọi người, nó không phân biệt đường nhựa hay đường đất, nhà cao hay cửa hẹp, hễ đâu có người ốm đau, hoạn nạn là nó bon tới, bất kể ngày hay đêm, nắng hay mưa, giông hay gió...
Biết chị Bằng đang khám bệnh cho anh Củng, nên chị Mạ giữ yên lặng, nhẹ nhàng đẩy cánh cửa khép hờ, bước vào. Bàn tay chị Bằng đặt trên ngực anh Củng bỗng giật nhẹ, vội quay ra mặt hơi biến sắc và cất tiếng hỏi, giọng to hơn thường ngày:
- … Những lúc ấy, anh thấy người thế nào?
Anh Củng:
- Không diễn tả được.
Chị Bằng giơ ngón tay ra hiệu cho chị Mạ giữ yên lặng, để chị tiếp tục việc của người thầy thuốc. Chị Mạ lặng lẽ quay trở ra dọn bàn nước để chuẩn bị tiếp bạn. Chỉ một lát, chị Bằng đã bước ra, đặt chiếc túi thuốc lên bàn, ngồi xuống ghế, gỡ búi tóc, ngậm chiếc cặp vào miệng, căng ngực búi lại tóc.
Đặt chén nước trước mặt chị Bằng, chị Mạ xoay người đối diện, hỏi:
- Mày thấy anh Củng hồi này thế nào?
- Cũng có khá hơn... tao thấy anh ấy vui, tinh thần có vẻ sảng khoái.
- Từ hôm tao với con Quế đọc đều chuyện cho anh ấy nghe, xem ra bệnh đỡ nhiều…
Nhưng cũng sợ, buổi nào thành công thì không sao, nếu có gì sơ suất anh ấy lên cơn thật khủng khiếp... Tao đ• đi một nhẽ, chỉ lo cho con Quế.
- Mày phải nhớ, không được bỏ thuốc, phải cho anh ấy uống đều.
Chị Bằng đột ngột đứng dậy ra về với lý do còn đi thăm bệnh nhân. Chị Mạ muốn giữ bạn lại chút nữa để giãi bày tâm sự như mọi lần, nhưng đành chịu. Chị Bằng dứt khoát bước ra ngoài. Chính cái "dứt khoát" ấy khiến chị Mạ càng thêm nghi ngờ. Bàn tay giật nhẹ, câu hỏi cố tình cao âm lượng và đột nhiên đòi về… tất cả đều không bình thường.
Cơm tối vừa xong, biết con gái hôm nay không về, anh Củng đã nhắc vợ:
- Tối nay em đọc tiếp cho anh nghe chứ?
Chị Mạ biết chồng đang nóng lòng muốn gặp lại Quyên trong quá khứ; miếng nước chè xanh như ứ lại nơi cổ họng, lằn da ở cổ, nơi yết hầu cồn lên chuyển động, hai hàng mi đen chợp nhanh. Tích tắc. Rồi tất cả trở lại trạng thái ban đầu. Lặng lẽ. Ngoài cửa, gió lẻn vào làm chiếc mành tre chao nhẹ. Nhà vắng vẻ quá. Vậy mà trong lòng chị Mạ bộn bề như phiên chợ. Nào cô Quyên xinh đẹp, nào Bằng dữ dội đáng yêu... hiện tại và quá khứ nhằng nhịt, đan cài vào nhau cắn cứa lòng chị. Dẫu gì thì chị cũng là đàn bà. Cái muôn thuở của đàn bà làm sao chị khác đi được. Chao ôi, ước gì chị có thể trút đi được cái muôn thuở đó mà sống vô tư được nhỉ. Ghen, nghĩa là yêu? Chưa đủ. ích kỷ cũng là nguyên cớ của ghen, tham lam cũng thế... Anh Củng ơi, quá khứ của anh không có những Quyên, hiện tại không có những Bằng, thì đỡ cho em quá. Em sẽ cần mẫn, vô tư đọc cho anh nghe hàng ngày mà lòng không cồn cào, cắn rứt. Biết rằng càng đọc, càng hiểu anh hơn. Nhưng càng đọc, càng không chịu nổi những trang như thế này.
Anh Củng vẫn ngồi trên ghế, hai bàn tay đặt ngay ngắn trên đôi ngai, ngón cái gõ từng nhịp nhẹ, đôi mắt nhìn ra chiếc mành ngoài cửa vẻ chờ đợi và thách thức, cái vẻ khiến chị Mạ càng thêm bức bối. Thế kia thì rõ ràng trong đầu anh đầy ắp hình ảnh Quyên mộng mơ rồi. Lại lim dim đôi mắt, múm mím đôi môi như đang bồng bềnh trôi giữa giọt tiên... thôi rồi, chắc là đã.. Đàn ông mà, không ai thoát được cái thói trăng hoa. Bệnh rề rề ra thế mà còn hoa với nguyệt. Vậy thì làm sao Mạ còn đọc tiếp được chứ?
Anh Củng bỗng thở sâu một nhịp. Chị Mạ quay lại nhìn chồng. Nhìn m•i. Chị nhìn m•i như bóc từng lớp anh Củng ra để đưa vào kính hiển vi soi từng tế bào. Thở sâu, đó là trạng thái tâm lý gì nhỉ? Hồi anh Củng còn đi xa, nhiều lúc nhớ chồng chị ngồi chôn sâu vào kỷ niệm ân ái, kết thúc thường cũng bằng một nhịp thở sâu tiếc nuối. Trời ơi! Thế thì đúng rồi. Đôi môi kia, ai đã từng... vòng tay kia, biết đâu đã từng... Mình sờ sờ thế này, phục vụ đủ điều... mà trong đầu anh lại là hình ảnh người đàn bà khác. ức chết đi được. Thế thì sống làm sao nổi.
Một cơn gió lạ giật mạnh chiếc mành, như thể có ai cầm chiếc roi vút nhẹ. Anh Củng, chị Mạ như bừng tỉnh. Anh Củng vịn ghế đứng dậy đi vào buồng, buông một câu:
- Đi nhỉ?
Chị Mạ nhìn dáng đi chập chững của chồng, trong lòng bỗng dâng lên nỗi niềm thương xót. Đống bọt sục sôi của nồi nước bỗng xẹp xuống. Chị đang làm nhiệm vụ của một thầy thuốc. Đúng thế, một thầy thuốc chữa bệnh tâm thần cho một bệnh nhân. Và đó là nhiệm vụ số một lúc này. Chị lặng lẽ gạt mọi vấn vít ngồi vào chiếc ghế kê bên giường, bật chiếc đèn bàn và làm nhiệm vụ...
*
… Ngoài sân, mưa đông kéo sụp bầu trời, đẩy những cơn gió nhọn như kim vào trong nhà. Trên chiếc giường đơn của cụ Thủ, giống như chiếc áo cụ mặc trên người, khó mà chống đỡ nổi mùa đông lạnh buốt. Trên lạch giường cụ lót mo cau. Trên những mảnh mo cau dày như tấm bạt, cụ trải một lớp rơm khô dày đến 20 phân. Trên rơm khô có đến bảy manh chiếu rách và một chiếc chiếu lành để phủ đi tất cả những gì bên dưới nó. Một chiếc quài bằng cói no căng bã chè và giẻ rách nằm vô tư ở đầu giường. Cụ bảo "gối cưới của tau đó, tụi bay". Tấm đắp duy nhất của cụ là một chiếc chăn chiên, lâu ngày những sợi bông rụng dần, còn lại chủ yếu là những sợi chỉ, căng lên trông như mắt lưới. Hôm nào trời dã man đuổi cái rét xuống nhiều, cụ tăng cường thêm chiếc chiếu. Cụ lọm khọm dém những sợi rơm khô, móm mém nói:
- No cơm tấm, ấm ổ rơm, anh ạ.
Tôi cúi xuống giấu đi giọt nóng vừa rơi vào khoé mắt. Cụ Thủ cũng như bà tôi, mẹ tôi và biết bao bà mẹ đang sống dưới bầu trời đầy bom đạn, và sẽ đến bao giờ những cái cảnh khó tưởng tượng này không còn nữa. Chiến tranh là một sự ép buộc, như người ta đành phải tung chăn xông ra giữa đêm đông để đánh trả bọn trộm cướp.
Một buổi tối cụ Thủ lạch bạch về, thận trọng vặn to ngọn đèn hoa kỳ, lôi trong cạp quần ra cuộn vải phin trắng lẳng xuống giường nói:
- Hai năm trời, bình xét hết hai buổi họp mới được miếng vải phin, lại có một mét ba, thiếu hai tấc nữa mới đủ cái áo. Rõ khổ.
Cụ rút trong tấm vải phin ra một cuộn vải màn xô, nói tiếp:
- Cái này cho con Quyên,... đàn bà, con gái còn sinh nở thì chả bình cho họ. Già tám mươi rồi, cần gì!
Quyên như bông hải đường rờ rỡ trong màu sắc đậm đà mà trinh tươi, cháu nội ông Nhậm ở nhà bên. Bỗng cụ Thủ chùi nước mắt bảo:
- Thanh niên trai tráng đi hết, còn lại đàn bà trẻ con. Rõ khổ.
Ngoài bếp có tiếng gõ cốp, cốp. Giật mình quay ra, tôi hỏi "ai đấy". Im lặng. Rồi tiếng Quyên thánh thót:
- "Cốp, cốp, cốp
Dê anh ngoan ngo•n
Mau mở cửa ra
Em đ• về nhà
Cho dê anh..."
- Cha bố cô, đứng ngoài đấy mà nghe trộm. - Cụ Thủ vừa đập muỗi phạch phạch vừa mắng Quyên.
Quyên bước vào nhà, sà vào giường ôm ngang lưng cụ Thủ, nũng nịu:
- Con nhớ bà quá!
- Tôi biết rồi! Cô nhớ cái anh kia kìa. Nhớ gì tôi. Rõ khổ.
- ứ…
Tiếng kẻng báo động bỗng vang lên ba tiếng một dồn dập. Đèn tắt phụt. Cụ Thủ được dìu xuống đất. Tôi hô một câu thừa "tất cả xuống hầm!". Chiếc hầm đào ngoài vườn chè. Trời tối như bưng lấy mắt, cụ Thủ không biết đâu mà lần. Tôi đành ghé lưng cõng. Cụ cầm chiếc quạt đập đập vào lưng tôi "để mặc bà, để mặc bà". Nhùng nhằng m•i không được, tôi bảo Quyên ôm hai chân cụ. Thế là chúng tôi rinh được cụ xuống hầm. Trong hầm mùi ẩm mốc bốc lên hâm hẩm.
Máy bay Mỹ xé nát màn đêm yên tĩnh, lao vào như những con ma đêm. Có chiếc bay thấp sát mặt đất hét điếc tai. Súng các loại bắn lên, đạn vạch những đường đỏ lừ, đan vào nhau như lưới lửa. Bầu trời, mặt đất đổ ập vào nhau, rung lên, nghiêng ngả bởi tiếng bom, đạn. Tôi muốn nhảy lên mặt đất để quan sát, khốn nỗi vai tôi và Quyên dính chặt vào nhau. Điểm dính nóng dần làm cho trái tim không khác gì bom nổ. Bàn tay quờ được bàn tay. Cả hai bàn tay hấp tấp nắm chặt lấy nhau như không có gì đang xảy ra trên mặt đất. Vài sợi tóc Quyên ròi rọi vào má làm tôi như tê đi vì cảm giác lạ nhất trong đời mình.
- Lên đi tụi bay, kẻng báo yên rồi.
- Ô hay! - Vẫn tiếng cụ Thủ - Tụi bay điếc cả rồi hả? Rõ khổ.
Chị Mạ đặt cuốn sổ xuống bàn, tắt chiếc đèn bàn, ngả mình xuống bên chồng. Có gì đó trong máu cứ dâng lên, kéo chị Mạ nằm xuống và ôm lấy anh Củng. Chị muốn chứng minh anh Củng là của chị, của riêng chị. Dẫu rằng mấy chục năm làm vợ anh, là mấy chục năm chị chờ đợi và chịu đựng. Song anh đã là của chị, thì chị có quyền sở hữu trọn vẹn, kể cả ý nghĩ của anh, không ai được chia sẻ. Và mỗi lần nghĩ đến điều đó là chị háo hức cố chiếm đoạt anh, để chứng tỏ sự sở hữu của mình. Chị dâng hiến hết mình, để buộc anh trao cho chị cùng kiệt. Chị thoả mãn vì nghĩ mình chiến thắng.
Xong rồi, chị ôm ngang bụng anh, hỏi khi anh đang thiu thiu ngủ:
- Lâu rồi, anh có gặp lại chị Quyên không?
Rõ ràng câu hỏi chứng tỏ chị còn nghi ngờ chiến thắng. Chị cần moi móc thật kỹ, để tiêu diệt bằng hết đối thủ. Anh Củng nghe vợ hỏi thì ậm ờ. Đến khi chị hỏi lần thứ hai, anh mới tỉnh:
- Hồi mới về huyện đội công tác, anh có đến thăm nơi đóng quân cũ. Cụ Thủ mất lâu rồi. Ông Nhậm, ông nội cô Quyên cũng mới mất. Vừa bước vào sân anh đ• thấy Quyên ngồi sàng gạo ở thềm. Chao! Mười chín năm rồi mà Quyên chả khác chút nào, cái eo lưng thon thả, mớ tóc quăn phủ xoà ngang vai, lấp đi một phần chiếc áo phin hồng thuở nào. Anh dựa chiếc xe đạp vào gốc mít lên tiếng: "Quyên! Chào em nhé". Quyên giật mình quay lại, mặt đỏ rần vẻ ngượng nghịu. Sợ Quyên không nhớ, anh tự giới thiệu: "Anh là Củng đây, Quyên ơi". Quyên đứng dậy, tay vụng về, miệng ấp úng: "Dạ... thưa... mẹ Quyên cháu đi dạy học chưa về ạ... bác là...". Trời! Anh lầm to rồi. Sao mà "giỏ nhà ai quai nhà ấy" chả sai chút nào.
*
Quế cởi bỏ chiếc xu chiêng cũ, lấy ra chiếc xu chiêng ngoại mới tinh chụp vào cặp vú ướm thử. Trời ạ! Sao mà vừa thế và xinh quá đi cơ. Cặp xu chiêng này phải đi với chiếc áo phông mới nổi. Cô mở tủ tìm chiếc áo phông Thái sọc tím mặc thử. Chao ôi! Làm sao mà cha mẹ lại tạo cho Quế bộ ngực hoàn mỹ đến thế. Quế khoanh hai tay trước ngực, nhắm mắt trước chiếc gương lớn gậm nhấm giây phút sung sướng.
Có tiếng gõ cửa, mẹ Quế lên tiếng:
- Con ơi, Quế ơi, mẹ vào được chứ?
Khi mẹ bước vào, Quế quay ra hai tay bím gấu áo kéo xuống, ngực cô căng cao, cô nghênh mặt:
- Mẹ thấy thế nào?
Chị Mạ lướt nhìn từ đầu tới chân, rồi đậu lại nơi bộ ngực tron trỏn của con gái, xuýt xoa:
- Con gái tôi hôm nay xinh quá!
Chị âu yếm xoa cặp má non mơn của con gái, dặn dò:
- Con phải thường xuyên xoa bóp làn da... kể cả cặp vú thì nó mới luôn tươi trẻ, nghe con. Ngày trước mẹ đâu có biết, nên bây giờ nó héo hẹo.
Quế ôm vai mẹ, ngồi xuống giường, nói:
- Con thấy ngực của mẹ vẫn đẹp như ngực con gái.
Chị Mạ cười:
- Vậy mà bố con vẫn chê mẹ.
Quế ngoen ngoẻn nói với mẹ:
- Đàn ông yêu bằng mắt. Mà mắt bố con lại bị mờ mất rồi... hay là con sắm cho bố cặp kính cận 10 đi-ốp để dùng mỗi khi gần mẹ.
- Cha bố cô.
Quế ôm ngang người mẹ, áp má vào lưng mẹ, hỏi:
- Hình như hồi này bố con khá hơn, phải không mẹ?
- Bố con đỡ nhiều... Cầu giời không có gì xảy ra... Dù sao bố con cũng như cây cột để mẹ con mình nương tựa.
- Tối nay mẹ nghỉ, để con đọc cho bố nghe, mẹ nhé?
- ừ, nhưng con nhớ phải trông bố, thấy có gì khang khác phải gọi mẹ ngay.
Tối đó, vừa bước vào phòng của bố, Quế đã• nhõng nhẽo:
- Bố ơi, bố trông con gái rượu của bố xinh thế này, lại cực kỳ ngoan mà chả có đứa nào nó dòm ngó đến. Con gái bố ê sắc rồi bố nhỉ.
Anh Củng thấy con gái vào thì vui ra mặt. Anh vừa ngơ ngơ nhìn vào mặt con, vừa vuốt mớ tóc dày của Quế:
- Con gái bố vẫn xinh, vẫn ngoan và sắp tới sẽ có một hoàng tử cưỡi tôm sú đến hỏi về làm vợ. Chỉ có điều...
Anh Củng vỗ vào vai con gái:
- Không phải... Chỉ có điều hoàng tử đội lốt con tôm sú, nên con không biết mà thôi.
- Bố!...
Quế biết bố cô rất ưa anh chàng chủ đầm tôm ở dưới Thái Thụy đẹp trai, thông minh, đ• vài lần gặp cô để trao đổi về kỹ thuật đưa con tôm từ miền Nam ra ương. Anh chàng này lạ lắm, không phải trung cấp, kỹ sư gì nhưng những điều anh ta biết về con tôm, con cá, về thuỷ sản, thì còn lâu Quế mới theo kịp. Quế không muốn bố bàn sâu vào chuyện này, nên trở lại công việc.
… Đơn vị hành quân đến xã• Quỳnh Ngọc, đúng ngày giỗ của làng, hỏi ra mới biết: Vào một buổi chiều mùa thu năm 1950, An-va-rê - Cao, một tên phản động đội lốt linh mục lệnh cho đồn trưởng bốt Quỳnh Lang cho quân đi lùng bắt hết đàn ông, trai tráng ba thôn của làng ra bốt để nghe quan lớn hiểu dụ.
Bốt Quỳnh Lang có một chiếc hầm nửa chìm, nửa nổi rộng 50 mét vuông. Phần trên hầm có một cửa nhỏ thông xuống bằng một chiếc thang tre. Sau khi bắt được 142 người, chúng nhốt xuống chiếc hầm chật hẹp. Có một người trượt chân ng• liền bị chúng xả súng bắn chết ngay tại chỗ.
Ở dưới hầm, người nọ lèn người kia, lại ngột ngạt vì cửa hầm bịt kín. Chỉ mấy giờ sau, 142 người tắc thở, họ kêu gào thảm thiết, rồi rú lên phát điên, lồng lộn giãy đạp, cắn xé lẫn nhau. Bọn địch dã man, xả súng bắn xuống... Khoảng nửa đêm, mọi âm thanh dưới hầm tắt lịm. 128 người chết ngạt. Máu ở miệng những người chết ậc ra lênh láng, đông lại, sục chân xuống như bước vào đống bùn.
Để xoá dấu vết, địch bắt những người còn sống dòng dây buộc vào cổ từng xác kéo lên, rồi đào hai chiếc hố ném xuống.
Sau này hoà bình lập lại, làng đào lên xương cốt lẫn lộn, đành phải chia đều cho mỗi bộ một ít để mai táng. Có gia đình hai bố con bị giết, có nhà cả bố, con, anh em bị giết đến năm người. Bởi thế người Thái Bình truyền đời câu:
Thái Bình có bốt Quỳnh Lang
Có lò cắt tiết, có hang chôn người...
Quế đặt cuốn sổ xuống, vội vàng lấy khăn lau nước mắt. Không ngờ trên quê hương mượt mà xanh ngát, vi vu tiếng sáo diều của cô, trước đó đã có biết bao máu đào đổ xuống. Suýt nữa thì cô chỉ biết phần ngọn còn phần gốc dưới đất sâu cô nào có biết. Thế ra, sự hiểu biết nông cạn về lịch sử, có thể là một nguyên nhân của vô ơn và độc ác. Cô nhìn như lạ vào gương mặt bố kính yêu và tự dưng một âm thanh vang lên từ trong tim: "Bố ơi, con hiểu vì sao bố, thế hệ bố lại phải cầm súng ra mặt trận".
Sau những giây phút xúc động, anh Củng ngồi dậy với cuốn sách đưa cho con gái, rồi bấm tắt ngọn đèn bàn. Cả gian phòng tràn ngập bóng tối. Anh Củng hỏi con gái:
- Con có đọc được không?
Quế hơi hoảng vì đã thấy bố khang khác, nhưng vẫn mạnh dạn trả lời:
- Con chả nhìn thấy gì, tối om bố ạ.
Anh Củng lại bật sáng chiếc đèn, rồi cầm chiếc đèn giơ lên bảo:
- Con đọc được chứ?
- Dạ, con đọc được ạ.
- Vậy thì phải làm sao, chứ con?
Quế lắng mắt suy nghĩ một lát, rồi chụm hai bàn tay kẹp trong gối, trả lời:
- ánh sáng của ngọn đèn đã cho con đọc được cái chữ.
Anh Củng nhìn thẳng vào mặt con gái, triết lý:
- Con phải cám ơn ngọn đèn vì ánh sáng của nó. Nhưng chớ quên người cầm đèn kiên nhẫn đứng trong đêm, nghe con.
CÒN TIẾP...
|