à đã đến đoản khúc trở về nơi đã ra đi.
Những thấm sau từ nơi ở đó trở về. Bầu Teng, cùng trên mặt đất, mái nhà thấp giữa chung quanh trải dài trồng cây ăn trái và cỏ dại dưới trời thường thường tịnh quang. Giàn thiên lý trước của, giàn chanh dây, giàn dưa tây, những cây thanh long, ngọc lan, mộc lan, hoa giấy, mẩu đơn, kim ngân, tứ hướng, hoa dại phía trước sân nhà. Phía sau xanh lá những cây chuối, đu đủ, mía, cóc, rau ngót, rau đay, củ thú, cà bát, đậu đũa, bí đỏ, mướp hương. Quanh các gốc cây có những con gà Lương Phương quẩn quanh, những con chó mực trửng giởn ngứa chân đạp cuồng ở giữa khoảng không và bồ câu trắng đứng trên mái chuồng. Riêng những con mèo tam thể ít khi chúng ra ngoài nhà. Xa hơn, trải dài tiếp theo, nằm trong trang trại, những cây sầu riêng, chôm chôm đang lớn, và đặc biệt đại trà năm ngàn cây mãng cầu na một tuổi.. Căn nhà mái thấp, nền đất, nằm giữa cây cỏ đủ loại đang vươn. Đang vươn những cây quít trổ hoa, chạy dài từ đường cấp phối vào nhà. Trở ra, trên đường cấp phối, những buổi chiều đạp xe trên sỏi lạo xạo ở giữa hai hàng cây xanh, giữa thênh thang ta thường bàng hoàng muốn trao, được hiểu. Trao đi nỗi nhớ, nhận về thấu hiểu cảnh tượng nơi đây. Nơi toàn cảnh xưa là rừng le, cày máy phá lâm, bây giờ trở thành đất bằng. Mặt bằng nhưng ẩn ở trong cỏ cạy vẫn còn loài ong, loài rắn, bò cạp, nhất là giữa lá phủ các cọc tiêu. Trong căn nhà, ta có chỗ nằm một chiếc phản gỗ cô bạn dành cho. Tấm chiếu cạp điều sờn rách bên trên. Và bên trên, ta nghĩ máu xương của ta sắp rã, đêm đêm thèm khát nhớ nhà nơi xa. Cùng nỗi nhớ, nhiều đêm mùi hương của hoa khiến ta nhìn ra chỗ giàn thiên lý dưới trăng bên ngoài cửa sổ. ta có thể bước ra ngoài, nào ai cấm. Nhưng cà ban ngày, những song cửa, có khi tưởng tựa nhà giam. Một kẻ như giữa nhà giam có một bài thơ viết vội trong một buổi chiều. Bài thơ mong ước vô vàn khoảng trời trên không trước mặt bất chợt thấy vợ của ta ôm con bay tới.
Nhưng trên thềm sân ta chỉ thấy những cánh hoa đã rụng, đã khô, lấm đất. Nối tiếp dường như căn phần ta vẫn một mình. Một mình thường xuyên lênh đênh hoang tưởng, âu sầu, động não. Rốt ráo, ở đó, ta thua nỗi nhó của ta, chỉ thua nỗi nhớ khôn lường của ta. Nhớ đến tầm thường mong ước một điện thoại hiện đại cầm tay, thèm một đường bay cao tốc có thể cực nhanh nắm chặt bàn tay xa cách đang chờ.
Nỗi nhớ làm sợ khoảng cách, thấy như thời gian dài hơn và thẳm sâu âu sầu nhân lên gấp bội, cũng như thắng được yếu đuối của ta : Ta bất khả quên, có những đêm ở đó, căn nhà mái thấp, mưa sập giàn chanh dây, ta và người bạn gái, cô chủ trang trại, nơi cô mong một ngày mai có một đạo tràng dành cho thân hữu tóc trắng bên nhau, mỗi tuần cô từ Sài Gòn vượt lên vào chiều thứ bảy, sáng ngày thứ hai ra về. Nhiều đêm, trước ngày cô về, thường thường những người làm công (họ là những kẻ trôi giạt đói khát từ bào thai, tha phương cầu thực, muốn thoát sức nặng đều đặn mỗi ngày, họ xin tạm được vắng mặt "rong chơi "), ta và cô bạn dưới mái nhà giữa gió và mưa, chỉ có hai người, luôn giữa khoảng cách và ta chế ngự, vượt được lên trên quán tính đa tình của ta, thôi ẩn số cứa là ẩn số, xem là tình sử đầu tiên của đời. Quả kỳ lạ, vượt được tầm thường giữa máu thúc tim. Câu chuyện giữa đêm, nhiều khi , rất khuya, chỉ thấy
phương pháp ươm hạt, kỹ thuật chăm cây, phân bón, thuốc trị sâu, rầy. Với mãng-cầu-na, loại cây đại trà trồng ba phần tư diện tích nông trại, chủng loại dai sức, vẫn phải không quên sạch cỏ, bón phân. Mọi cây trồng khác, cũng nên tuân thủ nguyên tắc nông nghiệp, qui trình phát triển đời cây. Một đêm qua đi, một thế giới dường như huyễn hoặc qua đi, cô bạn trở về tiếp tục công việc điều hành, giảng dạy trong trường ngoại ngữ. Người bạn trở về, và ta tiếp tục công việc của người quản lý. Phải dùng ai, làm gì tiếp tục cho laọi cây này, cây kia. Phải làm gì cho những ngày nối tiếp, có chăng thu hoạch hiệu quả để tranh đấu ra thị trường đụng chợ ?
Những ngày nơi đó, sở tại bình an, so với trở lại Chư Nê tới mùa cà phê thu hoạch. Nơi đó không hung hiểm, cây nối cây mọc giữa mặt bằng, nhưng những ngày tị nạn, còn đọng trong ta với những dấu ẩn, cả từng chi tiết không phải, kể cả tranh cãi ngộ nhận ban đầu. Trở lại Chư Nê, từ dốc đồi thông cửa rừng dẫn xuống, sức lực của ta tưởng như kiệt cạn, có khi trượt ngã, cạn kiệt vô cùng. Kẻ cạn kiệt đứng im lao đao cjóng mặt trước cảnh bốn người, chân không mang giầy, đang khiêng một xe Hoada cũ kỹ . Honda tróc sơn rỉ sét lên kiệu. Lối dốc lầy không thể chạy xe, họ dùng hai khúc cây tươi xỏ ngang giữa hai bánh xe làm đòn, và bốn bờ vai như khiêng quan tài đổ dốc. Trên bùn đỏ lối đường đổ dốc nối tiếp mô và hố trũng. Hố và mô cao. Bộ hành nghiêng ngả dưới mưa, trên bùn, trực chờ chúi ngã. Tiếp vào trong, người ta ở giữa với những lũng, đồi phủ xanh bạt ngàn màu lá cà phê. Và có những khoảng rừng xưa nguyên sinh còn đó. Rừng nguyên sinh đầy tiếng chim. Và chỉ có những hạt mưa rơi giũa nơi mông quạnh, không người.
Nối theo, vào sâu, ta xuống dốc, lên đồi ở giữa cây lá, ngang dọc chữ chi. Tốc độ bước đi giảm theo sức lực. Nhưng từng như đã thấy, đi thì dầu tới? Và nơi đang về không còn qúa xa.
Khúc này đã thấy những cây hoa mua màu tím. Sau những cây số đường dài, sáng sớm còn giữa Bàu Teng, lúc này ta sắp về đến lán xưa, chốn từng ẩn sống. Chốn ta thực hiện giấc mộng giữa nơi mông quạnh, xa những mặt nạ tự hóa anh hùng.
Xuống hết đoạn dốc, hai bên lối đi ngập cỏ vút cao, cùng với thời gian, lán xưa đã sập. Đã sập giữa đất và trời vắng quạnh. Khung lăn dọc ngang nằm trên nền đất đỏ cỏ dại phủ trùm. Từ lán xưa này, nhìn xuống cuối dộc, ta thấy mái che màu xám căn nhà mới xây. Phải xây ở đó vì co giếng nươc&, vì những nhà gỗ mau mục, hơn nữa vào muà nắng hạn, khiêng nước có thể ngã dốc như Ai ngày nào.
Dừng trước căn nhà, nhìn quanh, cả hồn và xác của ta hòa nhập với cây, với cỏ gần, xa, kề bên, hút mắt.
Cánh cửa mở ra, nhà chỉ có nền, tấm phản sát đất, và một đèn dầu đã vơi. Nào đâu ở nơi mệnh danh :
Village Solaire de l'Amitié Việt Nam - France như ở Bàu Teng với điện gia dụng năng lượng mặt trời. Nào đâu có bộ bàn ghế vững chãi thế ngồi và một truyền hình đen trắng. Nhưng cửa mở ra, nhìn lên đồi xanh, bên trái phía dưới hồ nước, ta thấy ta được phẳng lặng như nước mặt hồ. Ta thả ta vào quên lãng nhiễu loạn . Hãy xếp lại những dằn vặt thực dụng tồn tại ghê rợn. Hãy vượt cao hơn tầm thấp, thúc giục bủa quanh. Dù giá càphê đã tăng, ta chưa rời được bó chặt. Còn với đồi kia dự định nuôi một đàn dê, hồ dưới thả cá, ta phải nhờ mẹ bán nhà, mẹ đã tám mươi hai tuổi, ta còn bất hiếu phương xa.
Tìm củi cành khô nấu nước, pha trà, bắc nồi cơm nhỏ. Đã có cá khô. Ở đây vắng lặng, gặp tai nạn, chết cũng nào ai biết. Nhưng là cái giá ta nhất định trả giữa đời của người ẩn lánh ta bà ngoài kia.
Bất ngờ, những người thân yêu ta chờ xuất hiện. ta như một kẻ hoá điên, rộn ràng. Phi trọng khi ta cõng con lên rãy để xem càphê sắp hái. Những ngày ta xa, vợ ta một mình cố công đầu tư, chăm dưỡng. Thiếu hụt, nhưng trái vẫn đỏ trên cây. Trái đỏ, mồ hôi, có khi cùng máu quyện thành, sau nỗi mong chờ, hân hoan hoặc lòi nguyền rủa thời tiết. Có một cơ may, những cành dự trữ mùa sau nối dài nhiều mắt. Những mắt rồi sẽ ra hoa. Đừng quên chắn gió, gío sẽ rụng hoa. Và trong diễn biến, tạm thời qua trận khắc nghiệt giá thấp có người bức xức tự trầm. Trên những cành cây, giữa lá, con ta nhỏ dại với lời lập lại lời ta " Nhiều trái còn xanh, chưa thể thu hoạch ".
Ta cõng con ta cười vang xuống đồi, giữa gió ngược lên. Có ai biết gió ở đay, gió làm cành rụng hoa, rụng trái, chết người. Còn tiếp đen tối, dù đã biến chuyển thời giá, vẫn còn vô định. Nhưng những khoảnh khắc bềnh bồng là lúc hiện thực, đoàn tụ trên cao. Lúc có thể tạm yên ngồi nhìn mây bay thinh lặng trên đồi, sau khi bắt được một con châu chấu đại cồ cánh lụa màu đỏ cho con.
Vắng lặng mênh mông, nhưng đang là không mênh mông, vắng lặng.
12.2002.
© Cấm trích đăng nếu không có sự chấp thuận của Việt Văn Mới - Newvietart.