hưa bao giờ Chu Hy thấy đất trời hoang vu và cô đơn đến vậy, mặc dù đêm vẫn lộng gió và đẫm đặc ánh sao khuya. ánh sao trong trời trong, im lặng tạo thành luồng như nhũ chảy sóng sánh, rờn rợn. Hy rụt rè chìa tay ra hứng lấy khí trời rồi nhìn như soi vào tay mình. Bất giác Hy mỉm cười, nụ cười chưa kịp tắt thì đôi dòng nước mắt đã ứa ra lăn dài xuống má.
Hy lặng lẽ quay trở lại trong am.
- Thầy gắng uống hết chỗ thuốc này ạ. - Chu Hy nói.
Hải Thượng đáp, giọng có phần đã mệt:
- Số thầy không còn nữa. Đây chắc là ngày cuối của thầy rồi. Nhân sinh thất thập...
Chu Hy quỳ như đổ xuống bên giường của Hải Thượng, đầu gục xuống đất, nước mắt chan chan, chẳng biết nói sao.
Lát sau Hải Thượng tiếp:
- Sinh ra làm người sống với cõi đời này, nay trở về gặp lại tiền nhân, thầy nghĩ mình đã sống, làm việc có ích. Cái Tâm thì đã vì người, cái Tài có bao nhiêu truyền lại cho trò nên cũng không phải hổ thẹn gì. Song, nợ đời thì có ai trả cho trọn được, còn khiếm khuyết chừng nào, thầy để lậy này xin người đời đánh chữ đại xá cho... Các con, những trò của thầy, nối nghiệp thầy hãy gánh đỡ cho thầy phần còn lại.
Chu Hy nghẹn ngào thốt: "Dạ"
Hải Thượng ngoảnh mặt nhìn ra cửa miệng ông lẩm bẩm điều gì đó Hy nghe không rõ. Rồi ông vòng tay lại giơ lên trán vái ba vái.
- Còn điều gì con muốn hỏi ta nữa không?
Chần chừ rồi Hy nói:
- Lạy thầy cho con được thực lòng ạ.
Hải Thượng nhắm nghiền đôi mắt, trán ông nhăn lại vẻ phật ý. Song ông vẫn nằm yên. Sống bên Hải Thượng đã lâu Hy hiểu tính ông, như vậy là ông vẫn còn cho phép trò nói.
- Thưa thầy, phải chăng còn có điều gì huyền bí trong nghề mà con chưa nắm được?
- Tri thức có bao nhiêu thầy luôn cố gắng truyền bảo hết lại cho các con, còn điều gì chưa hiểu về nghề thì con hãy nghiền ngẫm trong bộ "Y tông tâm lĩnh". Hải Thượng nghiêng người nhìn thẳng vào gương mặt người trò, ông nói tiếp: Điều gì huyền bí ư? Có đấy, đó là tấm lòng với đời, tận tụy với nghề con ạ. Khi con người có tấm lòng tận tụy và yêu thương cộng với vốn tri thức đã có, thì con người đó có chiếc chìa khóa mở vào mọi điều huyền bí. Nhưng ác thay đó luôn là điều mà người ta khó truyền bảo cho nhau nhất. Con hãy tự tìm ở trong chính bản thân mình. Ta không giúp gì được cho con nữa đâu.
Nói xong Hải Thượng xoay người nằm lại thế cũ, có lẽ nằm như vậy ông cảm thấy dễ chịu hơn. Suốt mấy ngày qua Hy chỉ thấy ông nằm thế. Tuy nói vậy song rồi Hải Thượng vẫn lần tay vào túi lấy ra một mảnh giấy trong có ghi hai chữ xòe ra trước mặt Chu Hy. Hy tái mặt đi hồi lâu.
- Đây là môn thuốc căn bản cần cho con.
Chu Hy xòe đôi tay run rẩy nhận lấy tờ huyết mệnh. Tờ giấy mỏng mảnh mà ngỡ nặng vô chừng. Gương mặt Hải Thượng thoáng một nụ cười:
- Hãy ghi lòng tạc dạ gắng mà làm theo, mệnh của con chính là ở chỗ ấy!
Hai ngày sau Hải Thượng trút hơi thở cuối cùng.
*
* *
Sau khi mọi việc an táng cho thầy hoàn tất Chu Hy rời am cỏ nơi sơn cốc, xuống núi tiến thẳng về hướng đông đi một trăm ngày thì dừng lại ở một làng chài ven biển. Xem xét địa thế và thăm dò nhân tâm Hy quyết định lấy đất ấy làm nơi sinh nghiệp. Nhờ bao năm được sự dậy bảo của người thầy tài giỏi, tiếng tăm của Hy sớm nổi, suốt một vùng duyên hải rộng lớn người ta tôn Hy như bậc thánh y.
Chu Hy vóc người cao lớn, tiếng nói oang oang như lệnh, người bệnh gặp được Hy thì nửa sợ nửa mừng. Mừng vì bệnh có nhiều hy vọng qua khỏi, nhược bằng không chữa được thì cũng không ân hận vì xem đó là mệnh trời rồi. Sợ vì đôi bàn tay cứng như đá của Hy chạm vào đâu là nơi ấy dễ gây ra đau đớn. Vả lại, tính nết của Hy hay đùa cợt, chòng ghẹo người ta. Gương mặt Hy không đẹp nhưng sáng sủa đặc biệt là đôi mắt sáng một cách tinh quái. Khi Hy giận dữ ít ai dám nhìn vào đôi mắt ấy. Sống ngang tàng, quyền lực Hy không màng, của cải Hy cũng chẳng coi vào đâu. Chữa bệnh cho người ít khi Hy lấy tiền bỏ túi, chỉ với một nhu cầu là được ăn uống thỏa thuê. Khi gặp được người hợp ý, Hy có thể ngồi thâu đêm uống rượu cạn liền một lúc cả chục bát đầy mà thể chất vẫn không chuyển, tư chất vẫn tinh anh, người đời coi đây là sự lạ nên họ càng tôn sùng, đãi ngộ. Nhưng phải nỗi dân thường mấy ai được khá giả nên việc đãi ngộ Hy khi không được như ý khiến họ rất khổ tâm. Hy cũng hiểu vậy, ăn uống đã thành quen, trông bữa cơm đạm bạc bày ra Hy chau mày, tâm thế chùng lại. Cốt cách người thầy, người học giả Hy không dám bỏ, nên miệng vẫn cười nói tỏ vẻ như thường, song mọi người trước sau đều nhận ra cả.
Tầng lớp quan nha, hào phú Hy vốn chẳng ưa gì. Có lần Hy nói: "Quan nha thời này là lũ sâu bọ, hào phú là phường cống rãnh thối tha". Những ngày đầu sinh kế, bọn này mời được Hy tới nhà còn khó. Nhưng tính cách ấy cũng chẳng giữ được bao lâu, muốn có rượu, thịt Hy đã bước qua cổng nhà họ lúc nào không biết. Cũng từ ấy kẻ nghèo khó ít dám nhắc tới Hy.
Hy có một người môn sinh tên là Hàm, họ Nguyễn. Hàm có dáng thư sinh, lại có phong tư cốt cách được Hy quý lắm. Sinh ra trong một gia đình dòng dõi khoa bảng, Hàm là niềm hy vọng của dòng họ Nguyễn. Lên năm tuổi Hàm nổi tiếng thần đồng, lên mười tuổi cầm, kỳ, thi, họa môn gì cũng đáng mặt tài hoa. Song tâm hồn người vốn là bể sâu huyền bí muôn đời khó thấu. Hàm ham học nhưng lại không có chí lấy việc học tập làm sinh kế, ham văn chương nhưng cũng không lấy nghiệp văn chương làm mục đích. ở hai điểm này Hàm đã gặp người tương đồng là Chu Hy. Từ ấy Hàm theo Hy học làm nghề thuốc, cùng nhau sớm tối ngao du đó đây lấy làm đắc ý lắm.
Hy không có vợ. Thông hiểu vì sao hễ có ai khuyên Hy tính chuyện vợ con thì chỉ thấy Hy cười ngất. Gặp được Hàm, Hy coi như con, tỏ ý muốn có Hàm bên mình. Hàm kể từ đó coi Hy như cha đẻ, xưng con và đổi họ Nguyễn sang họ Chu.
Còn nhớ đó là một buổi trưa tháng Chạp năm Tân Hợi niên hiệu Quang Trung thứ tư (1791). Hai thầy trò Hy, Hàm đang săn sóc thuốc thang cho một người ngư dân trúng phong nặng bị cấm khẩu. Bỗng nhiên Hy tái mặt đi, lặng lẽ bỏ ra sân. Linh tính báo cho Hy điều gì đó chẳng lành. Quả nhiên chiều đó viên quan sở tại cưỡi ngựa đến nhà mang theo lệnh của triều đình đòi Hy về có việc. Tiếp lệnh của triều đình xong Hy cười ầm lên rồi trỏ vào Hàm bảo: "Con đi theo ta".
Tới kinh đô, Hy mới hay mình được vua Quang Trung vời vào thăm bệnh. Năm ấy nhà vua ba mươi tám tuổi. Sau bao năm chinh chiến, đất nước tạm trở lại ổn định và đang dần dần phát triển thịnh đạt, nhà vua chú ý hơn đến sức khỏe của mình. Nghe nói, ngày tháng ấy vua Quang Trung đã thấy có triệu chứng mệt mỏi, thể chất suy giảm. Vài ngày sau Hy được vời vào trong biệt điện. Quang Trung thân ra tận cửa đón, thái độ thân tình.
Nhà vua nói:
- Bệnh tật trong thân thể con người cũng giống như mưu đồ trong đầu quân địch, không phải tướng tài thì không hiểu ra, không phải thầy giỏi thì không thấy được. Ta nghe tiếng ông, ta tin vào trò của thầy Hải Thượng. ông giúp ta nghe...
Hy cười ngất.
Vua Quang Trung phật ý song vẫn ôn tồn hỏi:
- Ta có điều gì khiếm khuyết với ông chăng?
Hy trỏ vào mình Quang Trung mà rằng:
- Thể trạng được thế kia là may lớn rồi, có gì phải hỏi nữa?
Nhà vua nói:
- Ta vóc dáng xưa mười nay còn sáu, bảy, tâm thần nhiều khi choáng váng, mệt mỏi. Thể trạng vậy không lo sao được.
Hy đáp luôn:
- Khi xưa ở đàng trong lo cho ý đồ lớn, nhà vua sớm tối phải rèn luyện thể chất, chăm lo tới tinh thần để gìn giữ sức và làm gương cho sĩ tốt. Nay mộng đã thành, chí đã thỏa, chính là lúc nghỉ ngơi mà tận hưởng. Rượu quý chất như núi, thứ ngon vật lạ gì cũng có. Vả lại, con gái Bắc Hà nhiều như nhộng... Tôi trộm nghĩ thể trạng được vậy là may lớn rồi. Nói xong Hy lại cả cười...
Cận thần có mặt ở đó lúc ấy vừa kinh ngạc vừa tức giận đòi chém Hy.
Vua Quang Trung ngăn lại:
- Chết là sự dễ, sống cho đáng sống mới khó. Nó chắc không muốn sống nữa nên mượn tay ta để lẩn trốn cuộc đời này. Vậy thì ta giết nó làm gì, hãy cho nó vào trong ngục, sống ở xó tối ấy mà tự vấn mình.
Khi võ sĩ điệu Hy đi khuất vua Quang Trung nói với Tham tri Ngô Thì Nhậm: "Nếu nó ăn năn thì cứ thả cho nó ra. Ta không dùng được nó nhưng dân ta vẫn cần đến nó!".
Nguyên do, vốn cậy có ít chữ thánh hiền, Hy vốn không phục nhà Tây Sơn. Lại thêm mẹ Hy họ Đặng, người gốc Kinh Bắc có quan hệ ruột rà với Đặng Thị Huệ. Khi chúa Trịnh đổ, Đặng Thị Huệ chết, anh em nhà Hy xưa nhờ có Đặng Thị Huệ mà lên, vì thế nay cũng đổ theo. Hy mang mối tư thù với Quang Trung từ ấy.
Những ngày ở trong ngục Hy vẫn rung đùi ngâm vịnh, cười nói như không, coi hình phạt của Quang Trung như trò đùa. Một lần quan coi ngục hỏi Hy có ân hận gì không. Hy trợn mắt quát: "Ta là bậc trung liệt lại phải ân hận với phường thảo khấu tiếm ngôi ấy sao!". Chuyện đến tai Quang Trung, nhà vua cười lớn mà rằng: "Thảo khấu hay minh quân, lời này thuộc về sử sách. Chim bằng vỗ cánh một cái là bay đi trăm thước, chim cuốc dù có lủi đi trăm bước bất quá cũng chỉ đáng vài gang. Ta bận tâm với hắn làm gì".
Sau đó, vua Quang Trung sai người cho Hy ăn uống tử tế rồi dẫn ra ngoài thành đuổi đi.
Thầy trò Hy trở về chốn cũ. Nửa năm sau, năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung đột ngột băng hà.
*
* *
Từ ngày rời xa am cỏ của Hải Thượng Lãn Ông, Chu Hy đã ngầm tự nguyền là không khi nào trở lại với núi rừng nữa, bởi Hy sợ cảnh ấy, vật ấy sẽ làm một đối chứng với tâm trí Hy. Nụ cười cuối cùng của Hải Thượng, bàn tay phút cuối chìa ra mảnh giấy... Hy hiểu người thầy đã tường tận đến ruột gan mình. Điều dạy bảo lớn nhất, điều Hy cần phải học lớn nhất chính là ở đó.
Nhưng như có sự xếp đặt kỳ lạ, sự phối hòa huyền bí ấy của vũ trụ với một sức mạnh siêu nhiên không cưỡng nổi, bước chân - sau mười năm rời miền duyên hải, lần ấy lại đưa Hy trở lại miền sơn cước. Dẫu sao, mười năm Hy cũng đã lưu dấu ấn về sự tài hoa, nhiều con bệnh hiểm nghèo đã được Hy chữa chạy đem lại sự sống. Và một lớp học trò đã được Hy dạy bảo đủ sức ở lại làm nghề thuốc cứu người.
Đêm ấy, sao đặc trời. Sao trong ồ trời trong, hoang vu cô quanh, sao chảy thành luồng như nhũ sóng sánh. Hy rợn người, cúi mặt xuống ly rượu đầy, rơi lệ lã chã. Cái cảm giác năm xưa bất chợt hiện về. Hy rùng mình tính chuyện bỏ đi song lúc ấy ý chí của Hy không thắng nổi ý nghĩ định mệnh.
Dưới trời sao cô quạnh, Hy xòe hai bàn tay như muốn hứng lấy điều gì đó của trời đất rồi bất giác Hy cười, tiếng cười làm cho đệ tử giật mình kinh hãi.
Ở mọi nơi mọi lúc dù đang vui đến mấy hễ có ai nhắc đến chữ Tâm chữ Đức là y rằng Hy lặng thinh, có gạn cũng chẳng cười nói nữa. Do vậy, tuy thuộc lầu kinh sử, nhấc bút là thành thơ (thơ của Hy từng khiến các bậc văn thường có tiếng cũng nể trọng), thế nhưng Hy cũng chẳng dám làm thơ, thì giờ chỉ dành cho các cuộc vui, tiệc rượu. Cái tâm cái trí ấy đẩy Hy ngày một xa rời bạn đèn sách, vì hơn ai hết, đám người này thường vô tình hay hữu ý làm cho bóng dáng của tờ giấy có hai chữ kia day lật trong lòng.
Hy và Hàm hành nghề, tiếng tăm chẳng mấy chốc lại vang xa. Song Hàm nhận thấy, sau buổi tối ngồi dưới trời sao ấy Hy ít ngao du rượu chè hơn, tính tình trở nên trầm lặng hơn.
Lúc này, Nguyễn ánh đem quân ra thôn tính Bắc Hà, Hy cùng Hàm xuôi về ngụ ở Hà Đông. Dân tình ngày một nhao nhác, thuế khóa nặng nề, trộm cắp nổi lên như châu chấu. Cuộc trả thù nhà Tây Sơn rất thảm khốc. Hy dẫn Hàm đến cửa Văn Miếu sụp quỳ và than rằng: "Làm nghề thuốc mỗi khi không cứu được người bệnh dù là người bệnh trọng cũng là sự hổ thẹn của người làm thầy. Lẽ ra cứu được người mà vị kỷ, lơ là không cứu, đó là tội lớn. Sự thiệt mệnh của một người dân thường thì sự đau thương, tổn thất là của một nhà, sự thiệt mệnh của một đấng minh quân là tổn thất thuộc về trăm họ, thuộc về quốc gia nghìn năm! Ta đã mắc phải tội trời ấy, ta đã hại đời, hại người, tội của ta biển kia khôn sánh! Trời còn dung ta sao được nữa! Ta còn dung ta sao được nữa!..."
Hy ôm
mặt khóc như mưa. Hàm vực Hy về, Hy đi như kẻ chết rồi. Về nhà suốt mấy ngày Hy không ăn uống gì chỉ kêu khóc vật vã, tinh thần không còn sắc khí, thể trạng không còn thấy cốt gân, cứ vật vờ như chim xa đàn, ngựa lạc chủ, Hàm khuyên giải thế nào cũng không nghe.
Lúc tĩnh trí, Hy hỏi Hàm:
- Với con, ta là người thế nào?
Hiểu tính khí của Hy, trông ánh mắt, nghe giọng nói lúc đó, Hàm biết Hy muốn được nghe lời nói thực.
Hàm cúi mặt thưa:
- Người là thầy của con ạ.
Hy cười:
- Là thầy ư? Vậy là trò, con học được ở ta những gì?
Hàm thưa:
- Về tài mười phần con muốn học lấy cả mười.
- Về đức?
Hàm nín lặng.
Hy gặng:
- Là trò thì không được trốn lời thầy.
Hàm vẫn nín lặng.
Hy nổi giận quát:
- Ta không còn chút tư cách nào nữa ư?
Hàm buộc phải thưa, giọng tắc nghẹn:
- Được vài ba phần ạ.
Hy ngồi xuống như cây bị đốn, tóc xõa tung ra che kín mặt. Lát sau Hy nói:
- Là người hay không trước ở cái TÂM sau mới đến cái TàI. Theo đó mà xét, thì làm người, ta còn phải hổ thẹn nữa là làm thầy. Vậy sao mấy mươi năm con vẫn một dạ theo ta mà không chối bỏ ta.
Hàm thưa:
- Con nghe cổ nhân nói, vì tài mà gắng học lấy tài. Lại nghe, hiểu được người, thắng được mình mới là bậc chí nhân. Người học trò dù tài cán là bao trước đạo trời, việc đời cũng chỉ như một cái bình nhỏ bé, vậy phải rút lấy cái tinh túy mà theo.
Hy đứng dậy, run rẩy tiến đến bên Hàm:
- Làm thầy như ta ư? Làm thầy như ta mà có trò này thì đời này còn may lớn lắm. Rồi Hy trỏ sang mấy người học trò mới theo học nói: Chúng mày hãy theo Hàm mà học, đấy mới thực là thầy của thiên hạ!
Nói rồi, Hy ngã vật xuống đất. Đám học trò xúm lại vực lên. Từ ấy, Hy không gượng dậy được nữa. Đến một đêm trăng sao vằng vặc, gió thổi từ hướng đông đưa lại, Hy bảo Hàm vực ra ngoài hiên. Nhìn cảnh trời đất, nước mắt Hy lăn dài, chảy ròng ròng xuống gương mặt gầy gò teo tóp. Trông Hy, Hàm không cầm nổi nước mắt. Hàm gục xuống bên Hy khóc nghẹn ngào, lòng xiết bao thương cảm. Hy sai Hàm vào án thư lấy ra cái tráp thoang thoảng hương trầm - cái tráp suốt mấy chục năm qua Hy không cho phép ai động đến. Những ngón tay run rẩy lần qua mấy lần lụa hồng, lấy ra một phong thư dán kín.
Hy nói:
- Đây là lời cuối cùng của thầy ta, ta hiểu ta nhưng ta không thắng nổi ta. Bỏ lời thầy dẫn đến hại mình, ta là kẻ đắc tội. Chữ thầy ta nặng lắm, ta không cầm nổi, con cầm lấy mà theo!...
Hàm vái lậy ba lậy rồi nhận lấy.
Đến canh tư đêm ấy Chu Hy mất. Bấy giờ vào năm Nhâm Tuất (1802).
*
* *
Bái biệt Hà Đông, Hàm dắt theo dăm đứa học trò trở về quê hương bản quán. Vào một ngày thanh long hoàng đạo, mây nước yên lành, khí trời mát mẻ, Hàm làm lễ tế tổ tông và tổ nghiệp. Bên án thư tỏa khói hương trầm thơm ngát, Hàm bóc phong thư của Chu Hy trao lại. Tờ giấy đã ngả mầu nhưng chữ mực tầu sắc nét vẫn còn sáng rõ. Gương mặt Hàm bừng sáng, vẻ tươi tỉnh lạ. Hàm cả mừng quỳ xuống nâng phong thư lên ngang mày, dăm bảy đứa học trò cũng quỳ theo.
Hàm trao cho chúng phong thư rồi nói:
- Đây là điều đầu tiên mà các học trò cần phải học:
Đó là tờ giấy của Hải Thượng Lãn ông trao cho Chu Hy trước khi tạ thế cách đấy 14 năm, trong đó ghi vẻn vẹn có hai chữ: TÂM - ĐỨC!
ít ngày sau, Hàm sai thợ kim hoàn khắc vào một viên hồng ngọc hai chữ TÂM - ĐỨC đúng nét mẫu tự của Hải Thượng, lại nạm viên ngọc vào một cái ly Hàm thường dùng hằng ngày. Sớm tối, mỗi lần nâng chén Hàm tự soi mình vào viên ngọc, lấy đấy làm điều răn dạy mình ngày tháng.
Hàm dựng lên một cái quán đề TÂM ĐỨC QUÁN theo cách gọi của các văn nhân tài tử lúc bấy giờ. TÂM ĐỨC QUÁN cả thẩy có ba khu nhà, dùng để làm nơi thăm bệnh, nhà nghỉ và nhà tiếp khách, đặt thư phòng. Khách ra vào TÂM ĐỨC QUÁN nườm nượp như chim tháng hạ, từ những bậc văn nhân tiếng tăm lừng lẫy đến những kẻ quê mùa suốt đời chỉ biết cấy lúa, trồng dâu. Ai ai cũng tìm thấy ở TÂM ĐỨC QUÁN người tâm đồng tri kỷ. Có một vị khách dáng vẻ nho nhã, nhân buổi trò chuyện vui, hỏi Hàm có ý chê trách:
- Ông tìm gì ở trong đám người ô hợp ấy?
Hàm đáp:
- Tìm mình trong mình chỉ thấy nghĩa vụ; tìm mình trong kết quả đã đạt được cũng chưa đủ, vì chỉ thấy cái đã qua; chỉ có tìm mình trong lòng người mới thấy được hết mình cả trước lẫn sau.
Người khách chỉ tay lên mái nhà hỏi tiếp:
- Mái nhà này có che chở được tôi không?
- Thưa, không ạ?
Người khách đứng dậy vẻ giận dỗi nói:
- Tôi nghe người đời truyền tụng về ông, chẳng hóa ra chỉ hư danh thôi ư?
Hàm cung kính cúi đầu:
- Tôi nghe, người chỉ lấy tấm thân làm trọng thì quả là chỉ một mái nhà tre nứa cũng thấy được yên thân; người lấy tâm linh làm đạo cốt thì mái nhà này chở che sao cho được. Vậy nên tôi không dám nhận lời nói đó thôi.
Người khách tỏ sự mừng rỡ, chắp tay tạ lỗi cùng Hàm.
Lại có chuyện kể: Một hôm Hàm sang vùng bên thăm bạn, mải chuyện tâm giao túi thơ bầu rượu tưởng chừng không dứt được. Lúc về đến nửa đường, Hàm gặp một đám người võng cáng tức tưởi đi ngược lại phía mình. Hàm hỏi một bà lão đang than khóc vật vã, mới biết người con của bà bị bệnh trọng, nhà nghèo, đường lại xa, cố gắng mãi mới đưa được đến TÂM ĐỨC QUÁN. Suốt một ngày các học trò của Hàm đã hết lòng, hết sức cứu chữa bệnh mà vẫn không qua khỏi. Bà vừa kể vừa than khóc thảm thiết khiến Hàm không cầm được nước mắt. Hàm sụp xuống bên bà lão tạ lỗi: "Vui với bầu rượu túi thơ trong khi có người bệnh trọng chờ mình, Hàm này thực đắc tội!". Rồi Hàm về nhà sai người mang tiền nhang đến nhà người xấu số lo việc chôn cất tử tế. Cũng từ đấy Hàm bỏ hẳn thú giao du thưởng ngoạn, chỉ chú trọng vào việc dạy trò và chữa bệnh.
Thuở nhỏ, Hàm có một người bạn đồng môn tên Kiếm họ Vũ, lúc cùng học thường được Hàm giúp đỡ, chỉ bảo. Kiếm đỗ đạt không cao nhưng nhờ cậu ruột là người thân cận với viên tổng trấn Sơn Nam nên được bổ nhiệm vào một chức quan nha. Mỗi người theo một hướng, cái chính là Hàm thấy Kiếm lòng dạ bất nhất, tâm tính thiếu sự quang minh, mà không giao du với Kiếm nữa.
Thời thế xoay vần, từ một anh nha lại nhỏ bé núp dưới bóng người, khi Nguyễn ánh ra bắc, Kiếm như cá gặp dòng. Nhờ công lao trong công việc truy lùng phát hiện những người thân cận với nhà Tây Sơn, một năm sau Kiếm được bổ làm tri huyện, nắm trong tay một huyện rộng lớn mấy mươi vạn dân trong đó có Hàm.
Chỉ ít ngày sau khi được bổ nhiệm Kiếm đến trước cửa TÂM ĐỨC QUÁN ngồi chỗm chễ trên kiệu lớn tiếng gọi Hàm. Không thấy ai thưa, Kiếm xuống kiệu, khệnh khạng bước vào, hỏi giọng hách dịch:
- Đây là chốn nào?
Hàm vẫn ung dung ngồi đánh cờ, một học trò của Hàm tiến đến thưa:
- Bẩm đây là nơi gìn giữ mệnh người.
Kiếm như không nghe, tiến đến trước mặt Hàm, trỏ gậy lên án thư hỏi:
- Đây là thờ ai?
Hàm ngừng chơi cờ ngửng lên đáp:
- Thờ đạo trời.
Kiếm cười sặc lên:
- Muôn việc là bởi người. Giang sơn rộng lớn là thế, không phải đức Ngài thì ai lấy lại được. Việc đời xưa nay, sự đúng sai, lẽ còn mất, ắt phải tùy thuộc vào thời thế mà làm. Ông không hiểu điều đó sao?
- Hiểu.
- Vậy tại sao nơi này không phải để thờ Đức Gia Long?
- Bàn đến chữ "Đạo" là việc lớn của đời. Người như ta văn dốt vũ nhát, bàn đến làm sao được, nên không dám, xin ông lượng thứ cho.
Biết Hàm chửi mình, Kiếm tái mặt nhưng không thể bắt bẻ sao, đành nuốt hận ra về. Thế rồi nhân gia đình của một tên tay chân của Kiếm có người bệnh trọng khi đưa đến TÂM ĐỨC QUÁN được vài giờ thì chết, Kiếm xúi người đó làm đơn kiện Hàm. Kiếm liền cho lính về bắt Hàm lên chốn công đường tra khảo. Trong những ngày ấy Kiếm tha hồ mà làm nhục Hàm cho thỏa. Hàm nằm im, mềm nhũn khi bị đòn tra, mỉm cười khi bị xỉ vả. Thấy chí khí của Hàm không chuyển, Kiếm tức tối quát hỏi:
- Mày đã thấy nhục chưa?
Hàm đáp:
- Thấy.
- Mày đã biết phận chưa?
- Biết... Người khi không còn biết điều xỉ nhục là người vô sỉ, người đã quên đi cốt cách của mình; người không biết đến phận mình là người không thấy rõ cái tâm cái trí của mình. Chắc ông còn nhớ thuở đi học thầy đã dạy điều đó.
Biết Hàm lại chửi mình, bẽ bàng, tức tối, Kiếm sai lính đánh đập Hàm ngay trước mặt mình. Hàm ngửa mặt lên trời than: "Cái THIỆN vẫn bị vùi dập dưới bàn tay của cái ÁC, cái TRÍ vẫn bị coi thường trước cái BẠO LỰC cái NGU MUỘI - đây phải chăng là điều không thể dứt được? Hỡi ôi, ta suốt đời một dạ theo đạo thánh hiền, sống lấy điều tâm đức làm răn cuối cùng lại phải làm mồi cho phường ác bá, lũ tà gian ư?!". Hàm nói xong thét lên vang động rồi ngã vật xuống, thổ ra huyết mà chết.
Sau khi Hàm chết đám môn sinh theo học Hàm nhiều người đã thành tài, họ muốn ở lại TÂM ĐỨC QUÁN hành nghề và giữ gìn lấy cơ nghiệp bấy lâu Hàm gây dựng, song Kiếm đã cho lính xua đuổi và châm lửa đốt quán.
Người ta kể lại rằng: TÂM ĐỨC QUÁN cháy âm ỉ ba bốn ngày sau mới dứt. Người qua, kẻ lại ai cũng thắp hương trên nền đất hoang tàn. Sách vở trong thư phòng vạn quyển bị thiêu hủy, sự mất mát lớn là vài chục bộ sách viết về nghề của Hàm. Viên hồng ngọc kia cũng không sao tìm thấy nữa. Người ta bảo rằng chính Vũ Kiếm đã chiếm đoạt viên ngọc quý ấy, người thì bảo rằng, đó là một viên ngọc thần diệu sinh kết nên từ nguồn máu, lệ và niềm ước vọng cao đẹp của những con người thiên lương, nay không thể ở lại với trần gian vốn còn đầy rẫy điều thất đức, bất nhân nên đã tan biến mất...
Sự thể thế nào, hai trăm năm qua, nào đã ai hay? Ngay dấu vết dù chỉ là tàn tro của cái quán tâm đức kia, không biết ngày nay còn được mấy người nhớ đến???
Viết xong tháng 7- 1990
Sửa lại vào tháng 1-1992
© Tác Giả và Việt Văn Mới Giữ Bản Quyền.