TÁC GIẢ
TÁC PHẨM






. Tên thật: Nguyễn Văn Vinh
. Quê quán Bình An, Thuỷ Xuân, thành phố Huế
. Sinh ngày 27 tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1952)
. Hiên cư ngụ tại Trần Thái Tông, thành phố Huế

TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN :

. NGƯỜI ĐI SĂN HOÀNG HÔN - Nhà xuất bản Thuận Hoá 1995 (tập truyện ngắn)

. NỖI BUỒN KHÔNG DÁM GỌI TÊN - Nhà xuất bản Công an nhân dân 1999 (tập truyện ngắn)

. NGỌN ĐÈN VẪN TỎ - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2006 (tập truyện)

. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2007 (truyện dài)

(Đã đoạt giải văn xuôi trong cuộc thi "Những kỷ niệm dưới mái trường" do Kiến Thức Ngày Nay tổ chức (1998) ; tặng thưởng trong cuộc thi truyện ngắn của Hội Văn nghệ Đồng Nai tổ chức (1996) và nhiều truyện ngắn được các Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Thuận Hoá, Thanh Hoá, Công an Nhân dân, Văn Nghệ TP HCM, Văn Nghệ An Giang, Đồng Nai, Giáo Dục, NXB Trẻ.… chọn in thành tập truyện ngắn nhiều tác giả…)





TIỂU THUYẾT & TRUYỆN NGẮN


ĐẤT SAU MƯA
CÁI TÁT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI - Tiểu thuyết - Kỳ 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI - Tiểu thuyết - Kỳ 2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI - Tiểu thuyết - Kỳ 3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI - Tiểu thuyết - Kỳ 4
HAI BÀ MẸ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI - Tiểu thuyết - Kỳ 5
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI - Tiểu thuyết - Kỳ 6
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI - Tiểu thuyết - Kỳ 7
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI - Tiểu thuyết - Kỳ 8

























TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI

KỲ THỨ 8

PHỤC THIỆN

Tôi bước vào nhà trong cơn chếnh choáng nhưng cũng đủ tỉnh táo nhận ra chung quanh tôi nhiều người thân và cả cô chú ở gần nhà tôi tự động đến mừng tôi đặc xá trở về. Bà nội tôi ngồi khóc sụt sùi, mẹ Hạnh, thím Dung, thím Hiền, thím Tuệ, chú Hùng, chú Dũng và cả mấy o trong xóm nhìn tôi cười nói rầm rì… ai cũng rặng rỡ mừng! Thằng Út em cùng mẹ Yến với tôi, thằng Phúc em con mẹ Hạnh tôi và mấy đứa em con chú thím tôi bu quanh nhà tôi! Chúng chăm chăm nhìn tôi, như tôi từ hành tinh khác đến. Nhưng chúng chỉ nhìn tôi một lát rồi tản ra, đứa này chạy lui, đứa khác chạy tới trong nhà, ngoài hiên làm nhà tôi bỗng rộn ràng lên! Tôi để ý, một con bé mắt xanh, môi hường không biết con nhà ai, đứng nép ngoài cửa sổ chăm chú quan sát tôi? Duy ba tôi nghiêm mặt với vẻ không hài lòng. Tôi biết ba tôi không bằng lòng vì tôi mới ra trại đã vác ngay cái mặt đỏ bầm và miệng nồng hơi rượu về nhà. Ba đâu có biết, khi tôi vừa xuống xe ở đầu xóm, gặp mấy thằng bạn thân lôi tôi vào quán, uống mừng tôi! Tôi ở tù hơn một năm, bụng dạ yếu nhiều, mới nạp mấy ly "nặng đô" đã thấy đầu óc quay cuồng. Rượu bất khả ép, ép bất khả từ, tôi không thể từ chối tấm thịnh tình của các bạn, hơn nữa khổ lâu rồi, nhịn lâu rồi, tôi tự cho phép tôi uống một bữa cho đã thèm chứ. Xin ba thông cảm cho con!

Bà con ruột thịt của tôi ngồi đứng quanh tôi chật một gian phòng. Bà nội vừa khóc vừa cười và chú thím mừng tôi được đặc xá bằng những câu hỏi không ăn nhập gì về tôi, mà là tình hình của trại, chế độ của trại quản lý, cải tạo phạm nhân. Đại loại:

- Họ bắt lao động cực không Nô?

- Ăn có no không?

- Công an có đập tù không?

- Có đại bàng, đầu gấu nhiều không?

Tôi đang mệt nhưng cũng cố trả lời một câu thật lòng:

- Tù tất nhiên khổ. Nhưng mình biết đủ, biết tiết kiệm, biết chịu khó và chấp hành nội quy trại thì vẫn thấy thoải mái, lúc vui cháu tưởng cháu đang là một anh công nhân xa nhà, chưa được phép thăm gia đình thôi; lúc buồn nhớ vợ con thì chán lắm, tưởng chịu không nổi chú thím ạ. Còn cán bộ trại, chú thím cứ tưởng tượng đó là những người thầy bất đắc dĩ, đã là thầy, mấy khi ông thầy la mắng đứa trò ngoan bao giờ.

Tôi vừa dứt lời, bỗng nghe một tiếng:

- Xạo!

Ngoảnh nhìn, tôi lại thấy con cô gái mắt xanh môi hường đứng lấp ló ngoài khung cửa sổ đó. Tôi ngờ ngợ không biết ai vậy? Lát sau, tôi mới nhớ, đó là Ti Em con ông Con thợ rèn gần nhà tôi. Hồi tôi còn ở nhà, Ti Em tóc tai lơ xơ hoe nắng, vậy mà mới hơn năm năm tôi xa nhà, Ti Em đã lớn sượng lên một cách vội vàng như thế? Tôi xây ra cửa hỏi chuyện với Ti Em:

- Dạo này Ti làm chi?

- Ti bán nhà hàng.

- Chồng chưa?

- Ai ưa mà lấy. Em có thằng bạn ở tù về, hắn nói ở tù cực toe tua luôn. Anh bị "đói rách vĩ đại" không anh Nô?

- Không phải anh được tha về mà anh khen ở trên trại đâu. Ai nói tù không khổ, tù sướng thì ai cũng đâm đơn đi tù cả Ti à. Bạn Ti toe tua tại lười nhác đó thôi. Chứ siêng năng, chấp hành tốt cũng không đến nỗi nào. Anh nói thiệt đó Ti.

- Xạo!

Con gái chi mà cứ mở miệng ra, là xạo… tôi đang nghĩ vậy, có tiếng gọi của thím Con mẹ Ti Em. Ti Em ngoe ngoảy đi về không hề chào tôi một tiếng. Tôi trở lại trò chuyện với chú thím và hỏi thăm tình hình thằng Huynh, thằng Vấn cùng vụ với tôi bây giờ nó làm gì. Mẹ Hạnh tôi cho tôi biết thằng Huynh học đại học, thằng Vấn trốn vào Nam sau một lần đánh khách ở quán bia ôm ông Đệ bị trọng thương. Khi tôi cảm thấy không thể ngồi nói chuyện được nữa. Tôi xin phép cả nhà đi nằm. Bà nội chỉ cho tôi trở về gian phòng cũ, nơi thời niên thiếu của tôi cho tới lúc tôi bỏ nhà đi mà thằng Út đã thay thế, giờ nó trả lại cho tôi. Khi tôi bước vào phòng, tôi không ngạc nhiên vì ai đó đã thu xếp cho tôi một chỗ nằm gọn gàng, ngăn nắp? Chắc mẹ Hạnh hoặc bà nội tôi dọn sẵn đón tôi về. Tôi nằm dài xuống giường với ý tự trách mình đã quá chén, làm cho cuộc vui đoàn tụ không trọn vẹn. Tôi thiêm thiếp một lúc. Nhà tôi trở lại vắng lặng. Chợt tôi lơ mơ nghe tiếng ba tôi:

- Mới bước chân về nhà đã say mèn. Kiểu này e không tu tỉnh được!

Tiếng bà nội tôi khàn khàn:

- Tết nhất mà. Cho nó chơi ba ngày Tết rồi tìm việc cho nó làm ăn.

Mẹ Hạnh chen vào:

- Kê…ê…kệ…anh! Tìm chai dầu nhị cho mẹ, Phúc!

Trong khi mẹ Hạnh cạo gió, cu Phúc pha nước chanh cho tôi uống giải rượu, tôi lại mơ hồ cuộc trò chuyện của ba và mẹ Hạnh tôi:

- Cây đàn tui mua cho nó, chắc nó vất trên trại rồi? Còn cái rương của mẹ mi nữa? Con cái lớn rồi mà không biết tiếc của chi hết.

Mẹ Hạnh tôi tay đang cạo gió cho tôi, nói:

- Chim sổ lồng mà! Em a, vàng mười đó em cũng bỏ, nói chi là đàn với địch. Cái rương em cho nó là cái rương em mới ra trường, thuê thợ đóng để đi dạy đó, uổng thiệt! Nhưng thôi, con về kịp ăn Tết với gia đình là mừng rồi, thông cảm cho nó, anh!

Tôi nằm ngủ một mạch cho đến xế chiều mới thức dậy thấy ba mẹ và các em tôi lụi hụi bữa cơm tối. Tôi dậy rửa mặt xong vẫn còn ê ê cái đầu. Tôi ra đường coi thôn xóm sau bao năm xa cách thay đổi như thế nào. Rất ngạc nhiên khi thấy ngôi nhà của chú Côn thợ rèn, trước đây che bằng bao xi măng, nay đã lên được một ngôi nhà xây, mái lợp tôn lạnh. Bên cạnh và đối diện nhà chú Côn là hai ngôi nhà lầu bệ vệ. Trước đây chỗ đó là hai khu đất trống đầy tranh và cỏ dại. Dưới chân tôi một con đường thảm nhựa đen láng. Từ thuở nào, đây là một con đường đất không tên. Hai bên đường trồng tre và bờ bụi lau lách vắng vẻ. Hằng năm, mùa mưa dầm và những trận lụt đi qua, nước đào khoét giữa đường một dòng suối nhỏ. Sau mưa lũ đến kỳ xuân, hạ và thu phân đường trơ lỗ hê, lỗ hủng rất nguy hiểm cho những ai lạ đường quá bước sang đây khi đêm xuống. Tôi đã từng nghe xe đổ cái "rầm" bưng đèn chạy ra, tôi còn thấy một bóng người khập khiểng đẩy xe qua đoạn hê, hủng rồi nổ máy chạy tiếp vào vùng sáng vàng vọt của ngọn đèn đường ở phía trên dốc. Bây giờ con đường mang tên của một vị vua nhà Trần, thênh thang chạy giữa những ngôi nhà mới khang trang. Xóm phường tôi thay đổi đến bất ngờ. Tôi tản bộ theo dọc con người, gặp ai tôi cũng chào, cho dù có người tôi nhớ, có người tôi thấy quen quen. Thằng Út gọi tôi về ăn cơm. Lúc này tôi mới thấy nó cao vọt lên và biết ăn diện như một chàng trai bình thường. Tôi hỏi Út dạo này có làm gì không? Nó nói, thỉnh thoảng nó theo Chú Hùng, chú Dũng đi phụ hồ. Tôi hỏi Út có vào thăm mẹ với chị Ni không? Nó bảo "Bà thương chi tui biểu tui vô". Tôi bước nhanh cùng Út về ăn cơm.

Trong bữa cơm gần sáu năm tôi mới được dịp ngồi có Ba, có mẹ Hạnh, cu Phúc và thằng Út. Một bữa cơm đoàn tụnhưng chỉ đoàn tụ một nửa gia đình. Vẫn còn thiếu thằng Na em kế tôi đã đi lao đọng xuất khẩu ở Ma-lay-xi-a, chị Ni và mẹ tôi cùng vợ con tôi. Tôi biết, hiếm khi tôi được ngồi ăn cơm trong một mái gia đình đoàn tụ, hạnh phúc, êm ấm và đầy đủ như thế. Nhưng đạt được một nửa mong ước này cũng quý hiếm lắm rồi. Tôi cầm đủa mời ba, mẹ và các em cùng ăn như hồi nhỏ ba tôi dạy cho bốn chị em chúng tôi. Ba tôi cũng mời cả nhà ăn cơm rồi nói:

- Ngày mai đừng đi chơi đâu, qua đồn trình diện.

Tôi buông đũa:

- Dạ!

Ba tôi cũng bỏ chén cơm xuống, nói tiếp:

- Chiều qua anh Hiệu sang nhà nói ngày ni con về. Trong nhà ai rảnh chạy xe lên trại chở con về.

- Hiệu làm chi vậy ba?

- Công an khu vực. Anh Cảnh lên phó đồn rồi.

Hình ảnh chú Cảnh năm năm trước hiện về trong tâm trí tôi. Nhớ một lần, chú Cảnh đã sang nhà bắt tôi qua đồn vì tôi đã đánh một học sinh họp cấp II và "chấn" của nó một cái mũ Jean. Chú Cảnh nạt nộ và hăm doạ tôi đủ điều, đòi đưa tôi đi Trại giáo dưỡng nếu tôi còn thói chận đưòng học sinh chấn lột! Từ ấy, tôi không mấy thiện cảm với chú Cảnh công an khu vực tôi. Nhưng khi tôi đi hái củi, tôi bị té cây, rơi xuống đất rạn não, gãy chân, tay, tôi nghe chú Cảnh có gửi cho ba tôi ít tiền để phụ thêm tiền thuốc thang, viện phí cho tôi. Giờ ba nhắc lại chú đang phó đồn phường tôi, tôi còn sờ sợ trong lòng, không biết ngày mai qua trình diện, chú có bắt bẻ, làm khó cho tôi không?…

Bữa cơm đầu tiên sao bao năm xa cách rồi cũng qua. Tôi trở về phòng. Hình ảnh mẹ tôi, chị tôi và các em tôi và những bữa ăn cực kỳ thiếu thốn trong thời niên thiếu của tôi, lần lượt hiện về trong tâm trí tôi. Đây mãi mãi chỉ là giấc mơ. Tôi nghe trên má tôi hổi hổi hai dòng nước mắt. Tôi khóc… không biết tôi khóc vì nuối tiếc hay sung sướng trong ngày đầu tiên đoàn tụ với gia đình ; cũng có thể tất cả những buồn vui lẫn lộn ấy trộn thành hai hàng nước mắt trào tuôn? Mẹ ơi, con đã trở về!

Tôi qua đồn trình diện. Có một anh công an có lẽ ở thành phố lên làm việc với tôi. Anh coi giấy ra trại của tôi, hỏi chuyện tôi một lát, rồi khuyên tôi cố gắng làm ăn và bảo tôi tiếp tục trình diện khi có giấy mời. Khi tôi chuẩn bị đi về, một anh công an đi đến ngồi đối diện với tôi. Anh tròn tròn, chắc khoẻ và có vẻ mặt trẻ trung thân thiện. Tôi thấy trên bảng tên của anh có chữ Hiệu. Tôi biết anh là công an khu vực của tôi. Người sẽ quản lý tôi trong thời gian sắp tới. Anh nhìn tôi với nụ cười nở khẽ trên môi:

- Mình là Hiệu, công an khu vực 7. Hoàng đã có dự tính làm ăn chi chưa?

- Dạ chưa biết!

- Nghe vợ Hoàng sinh con gái phải không?

- Dạ, con bé mười mấy tháng rồi.

- Mẹ con chị ấy có ra mừng Hoàng về không?

- Dạ chưa. Ba tôi có điện vào nhưng chưa biết có ra không? Gần Tết sợ xe, tàu khó khăn.

- Thôi Hoàng về ăn Tết. Qua Tết cầm hộ khẩu của bác sang, mình chỉ cách nhập lại hộ khẩu cho. Có hộ khẩu Hoàng mới làm giấy kết hôn và làm khai sinh cho cháu được. Có gì khó khăn Hoàng cứ tâm sự với mình. Bà nội Hoàng coi mình như con cháu trong nhà, bà nhiều bận kể về Hoàng cho mình nghe. Mình thông cảm hoàn cảnh của Hoàng lắm. À Hoàng về, cho mình gửi mệ ký mức gừng, mệ ăn ba ngày Tết cho ấm.

- Dạ.

Đi về, tôi cảm thấy vui vui trong lòng vì đã được gặp một anh công an khu vực hiểu biết, thông cảm với những người vừa ra trại. Tôi nhớ lâu rồi có đọc một truỵện ngắn kể về một người tù mãn án trở về địa phương, anh ta xin việc đâu cũng không được, vì gặp ai anh cũng vấp những cái nhìn nghi ngại, dò xét. Những cái nhìn chết người của những người thiếu bao dung ấy đã làm khổ anh một thời gian dài. Tôi nhận thấy, anh Hiệu công an khu vực tôi, chỉ lớn hơn tôi vài ba, bốn tuổi mà đã chững chạc và nhân ái thế. Chắc anh không bị cha mẹ ly hôn và thời niên thiếu anh đã được hưởng một nền giáo dục tốt?

Một buổi sáng giáp Tết tôi dậy sớm tập thể dục như ở trên trại cải tạo. Tôi thấy mẹ Hạnh tôi lục đục nấu nước pha chè xanh cho ba tôi. Mới về nhà mấy hôm tôi cũng biết dạo này ba tôi nghiện chè xanh và chỉ mẹ Hạnh pha cho ba thôi. Ba tôi ủ chè xanh, uống đến trưa, đã thiu. Mẹ Hanh có tay ủ chè, chè mẹ ủ uống tới hôm sau vẫn con xanh. Mỗi ngày, mẹ Hạnh ủ chè trễ hơn, giờ chưa sáng mẹ đã lục cục chẻ củi, nấu nước. Đi ngang tôi hỏi:

- Mẹ pha chè chi sớm vậy?

- Để mẹ đi Hội An đem mẹ con Hằng ra ăn Tết.

Trong lòng tôi rất muốn gặp vợ con tôi. Nhưng ngại những ngày gần Tết ba mẹ tôi còn nhiều việc chưa làm, tôi nói:

- Thôi, để ra Tết con vô cũng được, mẹ đi chi cho tốn.

- Tốn chi mà tốn. Con khỏi lo đi. Mẹ đi trong ngày thôi.

Tôi đi ra đường chạy thể dục. Mẹ Hạnh vẫy tay nói:

- Hôm ni bên nhà mệ dọn dẹp quét vôi. Con coi phụ ông bà nội chùi bộ lư đồng trên bàn thờ. Con là cháu đích tôn, chú thím hay để mắt tới lắm đó.

- Mẹ khỏi phải dặn, con biết rồi.

Chập tối, một chiếc xe taxi đỗ xịch trước nhà tôi. Nghe tiếng mẹ Hạnh gọi, tôi đang ăn cơm vội buông chén chạy ra đường,vợ tôi bồng con gái tôi và mẹ Hạnh lỉnh kỉnh xách mấy túi xách xuống xe. Tôi a tới, vụng về bồng con, bước vào nhà, con tôi phát hiện tôi là người lạ, khóc thét lên và với tay sang đòi vợ tôi, đang chào ba tôi, chú thím và bà nội tôi sang thăm cháu dâu, cháu nội. Nội tôi mắng yêu cháu:

- Thằng cha mi đó chơ ai mà không cho bồng? Chừng đó mà ghê chưa!

Đêm ấy vợ con tôi nằm trong vòng tay tôi. Ôi một niềm hạnh phúc to lớn mà từ lâu tôi đã dại dột để vuột mất và phải phấn đấu bao tháng ngày gian khổ mới dành lại được. Từ đây, tôi phải giữ gìn hạnh phúc này như chính con mắt mình. Tôi tự dặn lòng như thế và từ từ đi vào giấc ngủ say sưa. Sáng hôm sau tôi dậy muộn. Nhìn trời trưa trật tôi bỏ tập thể dục buổi sáng. Tôi bước xuống bếp làm vệ sinh cá nhân gặp vợ tôi đang gọt khoai tây, lặt rau. Mẹ Hạnh tôi đang đứng bếp chiên xào, nấu nướng. Mẹ tôi nhờ tôi làm gà. Tôi mới sực nhớ hôm nay đã ngày ba mươi Tết. Tết đang đuổi sau lưng, làm ai cũng bận rộn, lăng xăng đón Tết. Riêng tôi, đoàn tụ với vợ con và gia đình đã sung sướng lắm rồi. Tôi không mong Tết đến mà mong Tết chóng qua vì bao việc tôi ấp ủ, dự định cho tương lai đều phải chờ ra Giêng mới trù liệu được. Tôi mài dao cắt cổ gà. Khi mới về, sáng sáng tôi thấy một cặp gà đang sống với nhau, con gà trống luôn miệng " cúc…cúc…" gọi con gà mái đến ăn khi nó bắt được con giun, mẩu bánh mỳ, hạt thóc…nay tôi phải bắt con trống ấy cắt cổ, tôi thấy tội cho nó quá. Tôi nói với mẹ Hạnh:

- Mẹ ơi, hai con gà đang ở với nhau, chừ làm một con, con thấy không nở. Thôi để con chở Hằng xuống chợ mua thịt heo lên thay cũng được ha mẹ.

Lúc ấy bà nội tôi đã qua phụ bếp giúp mẹ Hạnh tôi nấu cúng ba mươi. Nhà nội cũng cúng cuối năm nhưng bà chờ đến chiều khi các nhà con trai đã cúng xong, các cô con dâu mới tập trung lại phụ bà làm cỗ cúng ông bà. Bà nói:

- Vật dưỡng nhơn cháu ạ. Cứ làm đi cháu, hôm nay còn cúng tạ cháu ra tù nữa. Nghe thằng cha mi mời bạn bè tới mừng cháu về nữa mà. Kệ cứ làm đấu cháu, cho nó mau đầu thai kiếp khác.

Phong tục người Việt Nam dù giàu, dù nghèo rớt mùng tơi đều làm vài mâm cơm cúng tổ tiên vào ngày cuối năm. Có lẽ đây là dịp gia đình đoàn tụ trong năm ngoại trừ hai ngày phải có mặt đầy đủ là đám tang và đám cưới của người thân trong gia đình và cũng là dịp con cháu bày tỏ lòng thành kính đối với ông bà, làm lễ rước ông bà về ăn Tết với con cháu, nên người xưa bày ra cái lệ cúng cuối năm. Tôi ra sau hè bắt con gà trống ba tôi đã nhốt từ đêm qua, nói:

- Ngày ni nhà ai cũng cúng ông bà, ba cháu mời khách làm chi mệ.

Bà nội nói:

- Chắc ba cháu mừng quá đó.

Xế trưa cỗ dọn ra. Mẹ Hạnh biết đông thực khách, bảo trải chiếu dọn hẵn trên nền nhà. Khách của ba tôi lục tục kéo tới, bác đi bộ, chú đi xe, anh đi xe đạp. Xe của khách dự cỗ sắp đầy góc sân chung. Tôi biết khách ba và chú thím tôi mừng tôi về mới đến ăn cỗ. Ngày này nhà ai cũng bận rộn và ê hề rượu thịt, quý lắm họ mới tới dự cỗ nhà tôi. Nghĩ vậy, tôi càng hăng hái chạy lên chạy xuống bếp, bưng bê lo mồi,lo rượu cho các bác, các chú ăn nhậu thoải mái. Vào tiệc mới ba bốn tuần rượu, tôi nghe chú Thân làm Thông tấn xã tỉnh, hỏi ba tôi:

- Ông nhớ bài thơ Chiều Ba Mươi ông viết tại nhà tôi dạo đó không? Ông đọc cho anh em nghe đi.

Ba tôi nói:

- Hồi đó còn lạc hậu mới nhậu nước mắm với rượu. Giờ đâu còn cảnh đó. Thôi ông, đọc ra mất mặt bầu cua quá.

Chú Thân lè nhè bắt ba tôi đọc. Gọi là để nhớ cái thời bao cấp, tuy vật chất, của cải còn thiếu thốn, nhưng lạc quan, tình bè bạn, anh em đối đãi với nhau thân tình, trong sáng hơn bây giờ nhiều. Nghe vậy, dù ba tôi đã đỏ mặt, cũng đành gật đầu đồng ý đọc thơ bài thơ ấy sau lời phi lộ của chú Thân. Ba tôi cất giọng:

Chén nước mắm và xị rượu trắng

Mình với bạn mình vui liên hoan

Rượu nồng khà, hít hà rượu mặn

Mắt vơi đầy sóng sánh tình thân

Bạn nói chữa: "Vợ đưa tiền chợ

Gặp bạn thơ góp gió, về không"

Mình đọc nhịp gieo neo, trăn trở

Đời nghèo giông gió cứ mênh mông

Dạo Thanh niên xung phong, mày nhớ

Tuổi trẻ trai gian khổ lại say mê

Nửa điếu thuốc ướt bập môi, rát cổ

Còn bồng bềnh, sương khói nhiêu khê

Dăm đứa lên như diều gió thổi

Mấy thằng phải lặn lội tha hương

Mình với bạn nửa đời lặn lội

Mãi đèo bồng chữ nghĩa văn chương

Ba tôi đọc xong khổ bốn, nổi hứng ngâm theo giọng ngâm Bình Trị Thiên. Giọng ngâm của ba trải ra trầm ấm và sảng khoái:

Ngoác miệng cười tràn chiều giáp Tết

Chung chia chút nắng cuối xôn xao

Rượu nước mắm chuyện mình cũ, mới

Hạnh phúc ùa vách nứa lao xao…

"Bốp…bốp….bốp…"

Các chú ngồi chung cuộc nhậu vỗ tay tán thưởng giọng ngâm và bài thơ Chiều Ba Mươi của ba tôi, rồi cùng bưng ly rượu mặn tình bằng hữu ấy, đồng loạt hô một tiếng: "Dzô" và cùng uống cạn. Uống xong, có chú chúc ly xuống chiếu cho mọi người thấy chú đã uống sạch không còn một giọt rượu rơi. Không khí chiều giáp Tết ở nhà tôi thật sôi động, vui nhộn.

Những ngày Tết đoàn tụ và tràn ngập hạnh phúc với gia đình tôi ở Huế cũng tưng bừng qua mau. Ngày Mùng bốn Tết tôi xin phép ba và mẹ Hạnh đưa vợ con vào Hội An ăn Tết với gia đình vợ và mẹ tôi. Hơn nữa, ngày Mùng bốn Tết hằng năm cũng là ngày giỗ bà ngoại tôi. Chưa đúng sáu giờ sáng tôi đã đưa vợ con lên chuyến tàu nhanh vào Đà Nẵng. Tàu rộng thênh thang, các nhân viên lịch thiệp đón khách với những nụ cười và lời chúc may mắn. Thật đúng, Tết có sức thuyết phục diệu kỳ. Tết không chỉ đem mùa xuân tươi thắm về với vạn vật, cỏ cây mà còn xôn xao trong lòng người bao nguyện ước mới và hình như ai ai cũng muốn tốt hơn, đẹp hơn lên trong những ngày xuân.

Hội An đối với tôi không chỉ quê vợ mà con quê mẹ tôi. Mẹ tôi sinh ra ở Huế lớn lên bên dòng sông Hoài, một thời trung học là nữ sinh phố cổ. Và cũng là nơi tôi bắt đầu biết đến tình yêu trong sáng chân thật với Hằng, cho dù trước đó tôi đã chung sống gần như vợ chồng với Phia. Mới đây tôi nghe một thằng bạn nói, Phia bị bắt lên Trung tâm xã hội; bạn khác lại nói, thấy Phia ở Đà Nẵng chạy xe Wave Anpha oai lắm. Trong thâm tâm tôi, tôi chỉ mong Phia sớm quay đầu vào bờ, trở về sống trên mảnh đất bạc màu dọc trảng cát ven biển, tuy có nhọc nhằn một chút nhưng không phải trần thân thâu canh trong bóng đèn tội lỗi. Tôi lo sợ ngày nào đó Phia hết hương sắc phải ra đứng đường bắt khách thì thê thảm lắm! Dù một ngày cũng nghĩa vợ chồng, huống chi tôi và Phia có bao ngày sống bên nhau!

Hội An còn là nơi cưu mang tôi trong mấy năm trốn lệnh truy nã, nơi ông ngoại tôi vĩnh biệt cõi trần về với tổ tông. Hội An còn là nơi nửa chợ nửa quê, người dân không giàu có xênh xang như người thành phố lớn khác, nhưng phần nhiều thật thà và tốt bụng. Ở đấy có nhiều ngôi sao sáng. Ông Chủ tịch là một trong những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời phố Hội. Tôi khẳng định như vậy, bởi tôi đã từng sống lao động chân chính và tham gia công tác an ninh trật tự phường bao năm ở Hội An. Và vừa rồi đây, chị gái tôi có được một ngôi nhà từ tình thương yêu, đùm bọc của bà con phố Hội. Chuyên là vậy, anh rể vốn là con của mộtliệt sĩ công an Biên phòng. Mẹ anh mang thai anh tháng thứ bảy, cha anh hy sinh ở chiến trường K. Mẹ anh nuôi anh đến tuổi mười bảy, bà mới tái giá. Bà lấy chồng chưa được một năm, sinh một bé trai, từ đấy bà nghe chồng mới, không quan tâm đén anh rể tôi nữa. Anh rể tôi đi phụ hồ không nuôi nổi hai đứa con sinh đôi. Anh chạy quanh xin nội, xin ngoại, xin nhà vợ. Đất làng nội anh rể là đất anh hùng, đi vào mười nhà có chín nhà có Bà mẹ anh hùng, Liệt sĩ… Làng anh chỉ giàu truyền thống hy sinh, kiên cường chứ không giàu tiền bạc. Hơn nữa bà con cũng chỉ giúp ngặt chứ không giúp được nghèo. Anh bất lực! Ba tôi thấy hai thằng cháu ngoại quá èo uột, liền biên thư vào ông Chủ tịch thị xã nơi anh rễ tôi cư trú. Mấy ngày sau thư đi, ba tôi nhận điện thoại của chị tôi kể rằng, ông Chủ tịch đến chỗ anh chị tôi thuê nhà ở trọ, bảo anh chị tôi làm đơn xin Uỷ ban phường xác nhận để ông ký duyệt cho vợ chồng anh chị tôi một miếng đất và vật liệu làm nhà. Ngay buổi chiều hôm đó anh rễ tôi hí hửng đi chở sáu cột xi măng và mười hai tấm tôi mới nguyên. Sau đó, Uỷ ban phường nơi ở mới của anh chị tôi, đã cấp cho anh chị tôi mười bảy triệu đồng để xây nhà. Ba tôi lặn lội vào thăm ông Chủ tịch. Ông nói: "Đọc thư anh, tôi không ngủ được. Anh đừng áy náy chi, cũng là trách nhiệm của tôi". Ba tôi ngồi khóc sụt sùi trước ông và nói: "Thiệt là xúc động tấm lòng của ông. Lòng nhân hậu của ông tôi đã nghe nhiều người nói nên mới bạo dạn biên thư đến ông dù chưa hề quen biết ông, đúng là tiếng lành đồn xa" Ở một ngôi phố cổ này, đã và đang lấp lánh một ngôi sao nhân hậu cho nên vừa mới đây, tôi nghe ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng thời kỳ đổi mới.

Trở về phố cổ, tôi lại được gặp mẹ, chị, bà con và bạn bè tiếp đón nồng hậu. Những ngày Têt còn lại tôi cũng được sống trong bầu không khí rộn ràng, vui tươi và no đủ. Nhưng với riêng tôi, tôi vẫn cảm thấy bóng râm hạnh phúc của tôi không bao giờ trọn vẹn, như bóng mát cây sanh giữa lòng phố Hội bị vẹt đi một nữa do bão tố đã đi qua. Có nghĩa đời tôi không bao giờ có một mái ấm tròn trịa, cầu toàn ; khi có mẹ thì mất cha và ngược lại! Tôi biết số phận mỗi con người như đã có sự sắp đạt của tiền định, con người sinh ra ông trời đã định đoạt rồi. Những vị chân tu mới đủ tích đức sửa đổi số phận chính mình. Mẹ tôi vẫn vậy, vẫn bói bài lừa người thật thà chất phát dăm ba chục sống qua ngày; sáng vẫn phê pháo, ngày vẫn phì phèo thuốc lá, chiều tối vẫn cùng đám đàn ông mất nết bù khú bia bọt, rượu chè! Không hiểu sao, mẹ tôi đã đi quá nửa đời người mà chưa có ngày tỉnh ngộ. Hễ tôi động đến chuyện này là mẹ tôi lại lồng lên như con thú dữ, chửi rủa tôi. Bởi vậy tôi chỉ ghé thăm mẹ, rồi đưa vợ con lên ở nhà anh chị tôi.

Ra Giêng, tôi ở lỳ với phố Hội, ba tôi thư vào bảo tôi phải lo thu xếp về trình diện đồn một tháng một lần, tôi cũng không về. Tôi trở lại xưởng cơ khí, nơi hơn năm năm trước tôi bị công an đọc lịnh bắt. Ông chủ một lần vô ý chứa chấp kẻ truy nã đã sảng vía, ông không nhận tôi vào làm. Khi thấy tôi thất thểu đi về, ông gọi lại:

- Nô xin được giấy tạm vắng tôi nhận vào làm một tháng một triệu hai.

Tôi biết xưởng ông đang cần thợ nhưng ông vẫn còn sợ tôi trốn trại nên mới dặn tôi thế. Còn tôi hai tháng nay không về trình diện đồn công an phường, giờ chắc tôi không thể ra xin giấy tạm vắng được. Tôi cứ ở lỳ nhà anh chị tôi, ngày ngày tôi đi ra đi vào giữ con, ăn nhờ cơm vợ. Chưa có việc làm, thật khốn khổ cho đời tôi! Tôi chạy đôn chạy đáo xin việc, rồi trở về ngồi buồn nãn một mình! Tôi thấy mình yếu đuối quá. Vậy đấy, trong thời khó khăn nhất, ba tôi đã làm anh gà trống lậm lụi một mình nuôi bốn chị em tôi. Người can đảm nhất chính là cha tôi! Người tôi kính trọng và thương yêu nhất trần đời cũng chính là cha tôi. Nói như vậy không phải tôi hoàn toàn có hiếu đâu. Vừa mới đây vì quá rỗi rảnh, tôi xin tiền vợ chơi bài cốt ý gỡ lại ít tiền tôi đã thua trước đó. Tôi chơi càng thua càng khát nước. Rồi tôi nợ đến mấy trăm ngàn. Lúc đó tôi không thể ngộ ra rằng, chơi bài như con nghiện, càng chơi càng nghiện. Nợ tiền, tôi bắt đầu hoảng. Tôi chỉ còn cách viết thư nói dối với mẹ Hạnh, xin mẹ Hạnh ba trăm để lo thuốc thang cho con gái tôi đang nằm khoa nhi, để tạm thời cứu vãn tình thế. Không ngờ thơ tôi đi hơn một tuần, tôi có giấy mời đến bưu điện nhận bốn trăm ngàn. Tôi cầm tiền mẹ Hạnh mà tim tôi như vỡ vụn từng mảnh! Tôi biết bốn trăm ngàn đồng này là tiền của ba tôi nhịn ăn, nhịn tiêu, cúc cắc từng đồng để dành mới có được. Chứ mẹ Hạnh tôi lương ba đồng, ba cọc, lĩnh lương ra lo trả nợ ăn tiêu tháng trước đã sạch túi rồi. Tôi cầm tiền lòng thổn thức… liền chạy một mạch về nhà anh chị tôi. Vào trong nhà tôi biết vợ tôi đi làm chưa về, con tôi đang ngủ chỉ có chị tôi loay hoay dưới bếp. Tôi liền đóng cửa giam mình ngồi hối lỗi, ăn năn vì đã lừa dối ba và mẹ Hạnh. Khi vợ tôi đi làm về, tôi cố tỏ thái độ thản nhiên. Nghĩ lại, tôi tệ hại quá, không thể tha thứ cho mình được, nên viết ra đây, cho đỡ nặng trịch trong lòng và cũng là một lời sám hối tự đáy lòng tôi! Tôi tự hứa bỏ bài bạc và rèn luyện, tu dưỡng mình để trở thành con người mới. Trong thư chuyển tiền, mẹ Hạnh tôi dặn tôi ra nhà lo làm thủ tục nhập hộ khẩu, để làm giấy kết hôn và giấy khai sinh cho con gái tôi.Tôi lo sợ mai đây con tôi không có khai sinh để vào nhà trẻ, tôi bàn với vợ, để tôi ra làm giấy tờ rồi xin tạm vắng. Vợ tôi đồng ý và tưởng tôi không có tiền, đưa cho tôi một trăm ngàn.

Chuông chùa giộng boong..boong… làm tôi thức giấc, tôi tắt đèn ngủ tiếp. Có thể đây là một trong những đêm tôi ngủ trong căn phòng niên thiếu của tôi, khi tôi không mụ mị vì những ly bia, chén rượu mừng. Sự tỉnh táo càng làm tôi nằm khó ngủ lại được. Hình ảnh tuổi thơ tôi chập chờn hiện trong tôi, ngày ba tôi dắt bọn tôi ra toà chia tay mẹ, những bữa ăn toàn bí đỏ xào, ba tôi bảo ăn bí đỏ sẽ thông minh, học giỏi, bốn chị em tôi giành nhau vét đến miếng cuối cùng. Đậm nét nhất vẫn là những năm tháng run sợ trốn truy nã. Thân phận kẻ bị truy nã, nhìn ai cũng sợ, bởi ai cũng có quyền bắt và những ngày lao động trên trại cải tạo, những khuôn mặt bạn bè, những khúc mía ngọt lịm cho cái bụng luôn nghe đói ảo và những chú cán bộ quản giáo mà bọn tôi gọi là những người thầy của mình. Nhưng người thầy mặc áo công an tuy vẻ ngoài của họ nghiêm trang lạnh lùng, nhưng trong lòng họ lại ăm ắp tình bao dung nhân hậu…

Tôi bật đèn xem đồng hồ, mới ba giờ rưỡi, tôi lẩm bẩm "Bây giờ biết làm gì để nuôi vợ con đây? Chán thật!". Đáng lẽ tôi sang đồn trình diện hôm qua nhưng ngài ngại vả lại hôm qua thứ bảy công an nghỉ việc. Hôm nay chủ nhật, chắc anh Hiệu đã về thăm gia đình anh dịp cuối tuần. Trời sáng dần, không gian vắng lặng, tôi nằm nướng thêm một lát để ngắm bầu trời rạng sáng. Có tiếng chim sâu ríu rít trên cây vú sữa xanh um trước nhà. Có điều rất lạ, cây vú sữa mọc giữa những ngôi nhà trong vuông sân chung của đại gia đình ông tôi, chú thím và gia đình tôi mà lúc nào cũng đầy chim sâu, còn sau nhà tôi phía ảng nước gần cây soài tượng, thi thoảng bọn sáo trâu viếng thăm. Mẹ Hạnh tôi chúa ghét bọn chim này vì chúng thương vấy bẩn ảng nước. Tôi nhìn ra giàn mướp sát cửa sổ phòng tôi, lượn qua lượn lại rất nhiều ong bướm, chúng cần mẫn, chắc chiu từng giọt mật nuôi con! Tôi bỗng thấy tôi là thanh niên trai tráng mà không biết làm gì nuôi thân, nuôi con, cứ ăn chực nằm chờ người thân mãi thế này. Lời ba tôi dạy thằng Phúc và thằng Út cũng có thể cho tôi nữa trong buổi cơm tối qua, ba tôi thường lợi dụng những bữa cơm đầy đủ con cái dạy bảo chúng tôi. Ba tôi nói: “Hồi ba tuổi bằng các con hiên nay, ba cũng xem việc lao động tay chân là vất vả. Không vẻ vang gì cái anh lụi cụi, cắm cúi cuốc xới suốt ngày. Dễ đến hai mươi năm sau, khi thân thể cha bắt đầu rục rịch bệnh hoạn, ba mới thấy siêng năng làm việc và lao động tay chân thường xuyên, không chỉ là những thang thuốc thần hiệu, đem lại cho ta sự quân bình, khoẻ mạnh mà còn giúp ta xây dựng hạnh phúc gia đình mình bền vững. Tai hoạ và sự bất hạnh thường đến với những người ham chơi, siêng ăn, biếng làm các con ạ. Làm việc và làm việc, đó là điều kiện cốt yếu giúp mình thành đạt trong một thân thể tráng kiện, các con nhớ lấy.” Tôi sực nhớ phải tập thể dục, liền lồm cồm ngồi dậy xếp chân kiết già, thiền xuất sáng. Xả thiền tôi bóp qua chân tay một lát rồi chạy ào ra đường, tắm mình trong ánh nắng xuân nồng tươi ấm. Bầu trời trên đầu tôi trong xanh đến kỳ lạ. Tôi quên tất cả những phiền muộn, lo toan, hưng phấn chạy lên tới đồi thông, nơi ngọn đồi tôi đi hái củi, đã bị té từ trên cây thông cao xuống, gãy chân tay, rạn não! Khi tôi vừa đi vừa thư giản về nhà thì gặp anh Hiệu công an khu vực tôi đang đi xuống địa bàn. Tôi cất tiếng hỏi trước:

- Anh đi đâu sớm vậy?

Hiệu dừng lại vui vẻ hỏi:

- Hoàng ra khi nào?

- Dạ hôm qua thứ bảy tưởng anh nghỉ nên tôi chưa qua.

- Từ từ chớ vội gì. Thứ hai sang cũng được, nhớ đem hộ khẩu sang đưa mình xuống thành phố nhập cho.

- Cám ơn anh.

- Không có chi. Thôi tôi chạy tới nhà ông Tèo đã. Vợ chồng ông lục đục với nhau hoài, mới tảng sáng đã đánh nhau, thiệt tệ! Tôi đến hoà giải đây.

Nhìn anh Hiệu khuất bóng cuối đường, tôi thật sự cảm động, khi biết một anh công an khu vực không chỉ giữ gìn an ninh trật tự trong khu vực mà còn là anh chàng tư vấn, hoà giải chăm lo hạnh phúc cho những gia đình hay xung đột, lủng củng trong phường. Ngày chủ nhật cũng không rảnh rang trọn vẹn.

Nghe lời anh Hiệu, tôi sang phường và ngõ ý xin giấy tạm vắng để vào quê vợ xin làm Xí nghiệp Cơ khí tư nhân. Tôi không ngờ công an và Uỷ ban phường nhiệt tình tạo mọi điều kiện tốt cho tôi nhập hộ khẩu, làm giấy kết hôn sau khi vợ tôi gửi giấy Chứng nhận độc thân ra cho tôi và giấy khai sinh cho con tôi. Tôi cắp một chiếc cặp gồm giấy Tạm trú tạm vắng và các giấy tờ kể trên xuống ga, tôi thấy tôi đã là người dân hợp pháp, tự do đi lại bất cứ đâu. Tôi đáp tàu, xe vào Hội An sống với với vợ con. Khi vào phố Hội, tôi không lén lút nhìn trước sau mà uỡn ngực, hiên ngang đi thẳng vào hẻm xóm nhà vợ. Sung sướng nhất là lúc tôi mở cặp, khoe tất cả giấy tờ tôi đã làm ở Huế cho cha, mẹ và chị em bên vợ tôi xem. Cả nhà vợ ai cũng mừng cho tôi. Họ mừng cũng đúng vì xưa nay con em họ đã lấy một anh dân lậu, không giấy tờ tùy thân. Vợ tôi cầm giấy khai sinh con gái tôi đọc hàng chữ Nguyễn Thị Gia Nghi khóc mừng con gái của chúng tôi đã thành công dân tí hon của nước Việt!

Tôi làm ở Xí nghiệp cơ khí được sáu tháng, tôi đã to tiếng với ông chủ, vì ông không thực hiện đúng "hợp đồng miệng" là trả tôi một tháng một triệu hai. Ông trả tôi chỉ bảy trăm ngàn đồng, rồi tám trăm, chín trăm, trong khi tôi làm thẳng một ca từ sáng sớm đến chập tối, trưa tranh thủ ăn qua loa cơm bới nguội lạnh, chập tối mới lò dò về nhà bên vợ tôi. Dạo này tôi không ở nhà anh chị tôi nữa vì tôi không chịu được thái độ nặng nhẹ và khuôn mặt khó chịu của ông anh rễ khi la con, mắng vợ. Tôi đâu chịu ép mãi như thời trốn lệnh truy nã, phải chui đầu vào xí nghiệp của ông. Tôi cầm chín trăm ngàn lương tháng từ tay ông đưa, tôi nói:

- Chú nói chú trả tôi tháng một triệu hai, mà ba tháng đầu chú trả bảy trăm, hai tháng vừa rồi chú trả tám trăm, chừ thêm một trăm nữa, cũng không bằng lương thằng cu Bi. Thằng Bi làm không bằng tôi mà chú trả nó một triệu rưỡi tháng. Có phải chú thiên vị vì Bi là cháu của chú, hay chú bóc lột sức lao động của tôi?

- Mi nói ai bóc lột. Hồi mi trốn tù - Ông ta khi nào cũng nghĩ tôi trốn trại cải tạo, chứ không phải tôi trốn lênh truy nã - Tau đã cưu mang mi, ở tù về tau cũng tạo điều kiện cho mi mần ăn, vậy mà mi còn lấy ơn trả oán, nói tau bóc lột nữa hả. Ưa thì làm, không ưa thì cút khuất mắt tau. Không mợ chợ cũng đông!

Tôi cố nín nhịn trước người đồng hương mập ú, keo kiệt rồi hầm hầm bỏ về. Đứng đó cãi qua cãi lại có khi tôi tán cho ông ta một bát tai toé lửa thì ồn chuyện! Tôi nghỉ làm ở chơi với vợ con gần nửa tháng. Không có việc, chiều chiều tôi hay la cà mấy quán nhậu tìm bè bạn, nhậu lai rai cho đỡ buồn. Vợ tôi, sợ tôi cộc tính, thêm rượu vào nhiều khi tôi dễ phạm pháp, nên khuyên tôi trở về Huế đi buôn mai với chú Tùng tôi một thời gian. Tôi lại đáp tàu xe về nhà, bởi tôi không thể ở với mẹ Yến tôi. Thà tôi ở xa mẹ, thi thoảng tôi còn cồn cào nhớ thương người đã sinh thành tôi, cho dù mẹ cũng là người đã bỏ rơi tôi khi tôi con rất bé. Còn ở với mẹ, tôi là con trai lớn trong nhà không thể chịu nổi, một người mẹ suy sụp mọi thứ, ngày ngày ngụp lặn trong hố sâu tội lỗi, không chín chắn một người mẹ Huế. Ba tôi đã nói khi mẹ tôi muốn trở về chung sống với gia đình ba và mẹ Hạnh:

"Ba và mẹ Yến của các con bỏ nhau vì ba và mẹ Yên đều sai. Mẹ Yến sai hơn là rủ áo ra đi, không chịu nuôi một đứa con, biết đâu nhờ nuôi một đứa con, sẽ giữ cho người mẹ không lún sâu vào con đưòng tội lỗi. Ba không nói ba đúng. Nhưng ba nuôi bốn đứa bây là ba đúng. Cũng nhờ nuôi bốn đứa bây mà ba từ sai thành đúng, từ người xấu thành người tốt. Còn mẹ của các con suốt đời chạy tìm, càng chạy tìm càng hỏng, càng túng quẩn. Ba và Mẹ Yến ngày càng ngược nhau trong cuộc sống. Người cặm cụi làm điều tốt, người buông xuôi liều lĩnh đốt cháy tương lai. Mẹ Yến con không thể trở về sống với ba được, không phải ba đã có mẹ Hạnh, mà vì ba không thể sống với một người như vợ như thế. Các con nghĩ phải không? Đã là con người, ai cũng ưa điều tốt, người tốt ; không ai thích điều xấu và ăn ở với người xấu cả. Đó là quy luật của muôn đời các con ạ…"

Ngồi trên chuyến tàu chợ ra Huế. Tôi lấy cuốn hồi ký Sau Cơn Mưa của ba tôi viết cho mẹ tôi trong ngày ly hôn ở Toà án năm nào, ra đọc lại. Tôi có cuốn hồi ký này là nhờ lúc tôi và mẹ tôi tiếng qua tiếng lại, về chuyện mẹ có lỗi trong việc ly tán gia đình, để bây giờ ngồi thở vắn than dài, than than trách phận và trách cứ ba tôi cùng mẹ Hạnh làm chi. Mẹ tôi lấy cuốn sổ trong tủ ra nói: - Đem trả cho thằng cha mi. Đọc chừng mô tau ức chừng đó. Đánh người ta thành tật mà viết như thương yêu người ta lắm, không biết dị cái miệng!

Tôi biết mẹ không muốn giữ kỷ niệm giữa ba và mẹ nữa vì trong một lần uống bia với chú Hoà, mẹ tôi đem sổ ra khoe với ý mẹ tôi đã bỏ chồng, chớ không phải bị chồng bỏ. Chú Hoà mỉa mai: "Em còn thương ổng thì ra xin ổng làm vợ bé. Trước làm chính chừ làm bé cũng đặng mà". Do vậy, mẹ Yến mới biểu tôi đem trả cho ba. Gặp lúc tôi cũng đang giận mẹ để con gái tôi té chợt mặt. Vợ tôi nhờ mẹ tôi giữ hộ bé một lát mà mẹ bỏ đi uống cà phê. Tôi nói lại:

- Không có lửa làm sao có khói hở mẹ. Con thấy ba con tốt hơn mẹ nhiều.

Mẹ tôi tức giận dụt luôn cuốn sổ vào mặt tôi:

- Đem ra cho thằng cha tốt của mi! Đồ con mà tỏ lòng mẹ, bất hiếu!

- Mẹ vất tui đầu đường xó chợ, tui trở thành thằng con hư hỏng như ri là vì ai!?

Nói xong, tôi nhặt cuốn hồi ký đem đi. Tôi mở cuốn hồi ký của ba tôi ra đọc:

"Huế, ngày 20 tháng 5 năm 1985.

Nguyễn Minh Yến!

Anh viết cho em lần này không biết là lần cuối chăng? Bởi có thể anh sẽ đi xa tìm cuộc sống và dũng cảm nuôi các con, anh kiếm việc làm ổn định, anh sẽ sống với hạnh phúc còn lại của đời mình. Chúng ta đã làm khổ nhau nhiều rồi, ảnh hưởng đến uy tín và sự lớn dậy tròn lành của các con. Xảy ra việc này, bởi em không dám chịu cực, không dám hy sinh, nghĩ về mình nhiều quá. Anh, trái lại, sẵn lòng tạo bóng râm cho em và các con trú ngụ. Chính trong thẳm sâu lương tâm em, em đã hiểu tình thương anh đối với em như thế nào.

Em ra đi nhớ đừng tin ai cả. Nhất là đàn ông. Không dễ chi họ sẽ thành thật với một người đàn bà đã có bốn con. Em phải thận trọng, phải cân nhắc, đừng nhẹ dạ, dễ tin. Đừng hút thuốc, thuốc lá sẽ là em mất nghị lực, suy yếu tinh thần, buông xuôi trước cuộc đời. Em chỉ là một cành liễu yếu đuối, Không vững mạnh sẽ bị những cơn giông bão dập nát. Anh sợ em sẽ khổ, khổ nhiều hơn khi còn ở với anh. Không hút thuốc em sẽ biết vững gót mà vượt qua những hố thẳm cám dỗ.

Anh không thể tha thứ tội lỗi của em đã đối với anh. Nhưng mất em, anh sẽ vô cùng đau khổ. Anh bất lực trước quyết tâm của em. Không thể tìm ra một phương hướng nào để giải quyết. Anh phải cúi đầu chấp nhận, tuỳ em! Như vậy anh cũng là người đồng loã với em, để cắt đứt mối quan hệ mật thiết của gia đình ta. Trong tương lai sẽ biết ai là người có lỗi. Em hãy sáng suốt chọn lấy con đường em đi. Xa anh, em phải xứng đáng, phải hơn anh, phải làm thế nào cho các con chúng ta tự hào có một bà mẹ tốt. Nghe lời anh nghe em, đừng liều lĩnh, đừng sống sa đoạ. Tương lai vẫn đang chờ em và các con vô cùng cần thiết em!

Em đã dành cho anh nhiều hạnh phúc lẫn khổ đau. Em cần gì ở anh, anh sẽ giúp em hết khả năng. Chỉ mong em để yên cho anh nuôi con, đừng làm xáo trộn sự đoàn tụ của các con. Các con đã mất mẹ, thì sự đoàn tụ bốn đứa với nhau cũng là điều an ủi.

Anh chúc em mạnh khoẻ, sống xứng đáng. Chúc em tìm được một hạnh phúc sau cùng cho đời em. Chúng ta đã đau khổ nhiều rồi.

Huế, ngày 8 tháng 7 năm 1985.

Nguyễn Minh Yến!

Anh đi từ khổ đau đến ổn định và bình yên. Em đi từ tự do đến ray rức và đau khổ. Ai thấm thía những nỗi đau mới thấy sự nỗi đau là viên ngọc quý. Ai qua được sẽ trưởng thành hơn. Mong em vì còn liên hệ với các con mà đừng lừa dối anh. Anh vẫn yêu nhất lòng thành thật. Được vậy, chúng ta mãi là bạn. Sẽ còn vì con mà giúp nhau trong cuộc đời này.

Anh viết cho em không hề có mục đích cản trở việc ly hôn của em. Không hề khơi gợi quá khứ để níu kéo em quay về với anh. Anh nhất quyết không bao giờ năn nỉ em làm vợ anh nữa. Tờ giấy chứng nhận ly hôn của toà cấp, em nên bọc nhựa để còn dùng lâu dài. Còn anh, không quan trọng. Anh đang ở thời để chết, múi chanh em đã vắt xong. Tất cả chỉ là bọt bèo hư vô!

Anh nhớ lời em nói lần em lên bồng cu Út đi: "Mong ai đó thương anh thành thật, để anh bớt khổ đau" Xin cám ơn sự thương hại của em. Xin thưa em, hạnh phúc tự nó sẽ đến với những ai luôn biết rèn luyện mình, không gian dối và thuỷ chung. Em đi một ngày, Ni tìm một cái áo của cu Út sót lại. Bé Ni hôn cái áo của em, rồi khóc. Em thấy lỗi của em chưa? Tự em đòi ly hôn cho thật nhanh, đòi cắt chia đoàn tụ của con cái. Anh nhớ mãi câu nói của em trong ngày ra Toà lần thứ hai: "Không lý vì những đứa con mà đời tôi phải khổ mãi". Sao thế Yến? Đã bao người mẹ chết vì con, nhất là bà mẹ Huế, bà mẹ Đông phương. Họ sẵn sàng chết cho con cái họ được sung sướng. Hãy ráng học tập họ một chút nghe Yến, một chút thôi!

Việc ly hôn của em, em hãy độc lập, lập trường. Không nghe ai xúi giục. Ai chia máu cho mình, ấy là người thương mình, ai hy sinh cho mình, cưu mang mình ấy là người thương mình. Hãy đến với người ấy với tất cả tấm lòng còn lại và hết mực thuỷ chung, để an vui tuổi già. Những lời nói đầu môi ai cũng uốn lưỡi được, máu trong tim rót ra, em thật khó tìm. Em đã khước từ sự thuỷ chung cho em, em sẽ gặp lừa dối Yến ơi! Anh sợ em sẽ khổ sau này. Vì các con và tội nghiệp em, anh dẹp bỏ căm thù để thành bạn của em mà lui tới với nhau, cùng lo cho các con.

Đến đây, anh mời em bước vào những trang hồi ký về đoạn đường chúng ta đã đi. Không ai tái lập được lần thứ hai trong đời. Bởi chúng ta đã cho nhau hết thời son trẻ của chính mình. Vẫn còn nhiều câu tốt lành để chúc em"…

Tôi thấy buồn chán cho số phận của ba và mẹ tôi. Tôi biết ba tôi đã thức bao đêm, viết trong nước mắt. Tôi gấp cuốn hồi ký của ba, đầu dựa vào ghế lim dim. Tôi nghe ướt trong hai mắt. Tôi biết tôi đang khóc và không biết tôi đang khóc cho tôi hay cho ba mẹ tôi đây!?


    CÒN TIẾP....


 
                     


© Bản Quyền của Tác Giả .



TRANG CHÍNH TRANG THƠ ĐOẢN THIÊN BIÊN DỊCH NHẬN ĐỊNH ÂM NHẠC