NHỮNG HẠT BỤI
"C
hợ đồ sôn” hay “chợ đồ si đa” là nơi bán hàng cũ: áo quần, giày dép, mũ nón, chăn màn, túi giỏ… cũ, đại hạ giá. Ở miền Nam, hồi trước bảy lăm, đồø cũ do các tổ chức từ thiện nước ngoài gởi tặng cho đồng bào bão lụt, thay vì đến tay người nhận thì nó được tuồn ra chợ, từ đó mới có đồ “ sôn”. Aáy là bố tôi bảo thế, chứ còn bây giờ đồ “sôn” là hàng ngoại hẳn hòi, nhưng là hàng cũ. Không biết đồ “sôn” có giống hàng “sale off” ở các cửa hiệu thời trang hay không ? Nhưng chắc cũng na ná giống nhau thôi, vì cùng dạng bán rẻ, cực rẻ! Không phải chỉ kể suông, mà gia đình tôi cũng tham gia thực hiện luôn, như diễn viên chính thức trong vở kịch “ Chợ đồ sôn” này. Đó là nơi gia đình tôi sống, kinh doanh và nó giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế gia đình của tôi. Còn với tôi. Nó có…nhiều chuyện lắm !
Ngày ấy, bố tôi bị kỷ luật vì bố tôi đã làm ảnh hưởng đến danh dự nhà giáo! Nguyên nhân là bố tôi đã tham gia làm xổ số, lô tô trong hội hoa xuân vào dịp tết. Không biết do bị buộc thôi việc hay vì tự ái mà bố tôi đã nghỉ dạy. Bố tôi nghỉ, nhưng mẹ tôi mỗi ngày vẫn áo dài nghiêm chỉnh đến lớp. Về nhà, bố tôi làm dịch vụ đánh máy thuê, in lụa. Được một thời gian bố tôi phải dẹp vì nhà nước không cho phép. Sẵn chiếc xe máy cũ, bố tôi xoay qua chạy xe ôm . Thời buổi khó khăn, kiếm cái ăn được cho gia đình là tốt rồi, mặc bố ! Bố tôi bảo thế .
Chạy xe ôm chỉ đủ đắp đổi hằng ngày chứ không dư giả được, mặc dầu bố tôi là “tiên chỉ” trong làng, bỡi bố tôi vừa lớn tuổi vừa là “xe ôm gốc thầy giáo”. Bố tôi quay ra buôn bán “đồ sôn”. Lúc đầu, bố tôi lấy lại hàng của các đầu nậu, trải tấm bạt ngay lối vào chợ vừa tiếp thị, vừa bán hàng. Một đống quần áo đủ mầu, đủ cỡ, hôi rình… nhưng bố tôi cứ cầm lên, ném xuống, hất qua, hất lại, rao mời rất chuyên nghiệp : “ Mại dô ! Mại dô ! Mua đi bà con !”. Hoặc :” Hai chục đồng một cái, bán một tặng một, tính tiền hai…” Bố tôi đứng giữa mấy cái “loa mồm” như vậy, hàng “la” mà ! Lần đầu thấy bố bán hàng, tôi rơi nước mắt! Bố an ủi tôi :” Bác Quang, dạy đại học, bây giờ thất nghiệp, quang gánh ra chợ, ai sai gì gánh đó kia kìa, hơi đâu mà buồn…”. Có khi, có đến năm, bảy người khách cùng chọn hàng một lúc, ai vừa ý cái nào cứ lấy cái ấy rồi đưa tiền rất tự giác, chứ bố tôi sức đâu mà quản lý. Nhiều khi, đang mua bán ì xèo, nhác thấy bóng công an, hấp ! tấm bạt được túm lại, lên vai ngay, chạy vào hẻm. Công An mà bắt được, sẽ bị phạt về tội “ vi phạm trật tự…” gì đó, có khi còn bị tịch thu hàng nữa chứ !
Từ lúc bố tôi chuyển sang “hàng sôn “, nhà tôi đỡ khổ , bữa cơm hằng ngày tươm hơn, chị em tôi được ăn xôi hoặc bánh mì sáng chứ không trường kỳ cơm nguội như trước. Cứ mỗi buổi chiều, tôi và mẹ tôi lại ra chợ, phụ bố tôi dọn hàng, tống hết cả tạ đồ cũ ấy vào bao, đem gởi một nhà trong chợ, xong rồi về.
Mùa hè năm tôi học lớp mười một, hoạt động “hàng sôn” của gia đình tôi thay đổi và vì vậy, tôi có dịp “ ra chợ” nhiều hơn. Thành phố qui hoạch cho “hàng sôn” vào một khu vực riêng, khoảnh đất trống đầy rác bên hông phải chợ. Bố tôi làm được một gian khoảng bốn mét vuông. Bố tôi không còn lấy hàng tại chỗ như trước nữa, ông đã liên hệ và lấy hàng từ Cămpuchia. Mỗi tháng, hàng về mấy bao to ngoại khổ, chúng tôi bung ra, phân loại, cái để treo tiền trăm, cái xếp đống tiền chục, còn loại bát nháo từ đồ lót đến vớ cũ, bố tôi giao cho cánh “ vừa la vừa chạy, mười ngàn ba cái…” ngoài cửa chợ.
Nói tôi được “ ra chợ” nhiều hơn là do những ngày nghỉ, tôi phải ra chợ phụ cho bố tôi , khi thì phân loại, khi thì giao hàng cho các sạp khác, đôi khi tôi ngồi tại sạp bán hàng, làm một “ cô chủ nhỏ “. Gặp bao hàng nhiều đồ đẹp, còn mới nguyên chưa có dấu vết đã sử dụng, nhiều áo khoác bằng da, nhiều bộ áo quần bò chưa rách…là chúng tôi lời to. Mẹ con tôi còn có nhiệm vụ đơm nút, may lại những chỗ sứt chỉ, đánh “xi” những chiếc áo da để cho “vừa lòng người mua” và cũng để bán được giá hơn. Ban đầu, tôi phải bịt khẩu trang, bôi dầu Trường Sơn khi ngồi sạp vì cái mùi đồ cũ, nó hôi lắm ! Dân “đồ sôn” hít thở, ăn uống, cười nói trong môi trường ấy, mãi thành quen. Chưa hết, có khi có vài “người son phấn” vào chợ mang theo mùi nước hoa nồng nặc làm không khí nó càng khó chịu hơn. Những lúc ấy, tôi có cảm giác như vào một nhà vệ sinh chưa dọn sạch mà được xịt quá nhiều dầu thơm khử mùi ! Trong đám khách đó, có con Hường, bạn học cũ của tôi !
Hường là con bà Hương, nhà ở bìa nghĩa trang thành phố. Nó học chung lớp với tôi sáu năm phổ thông, đến lớp sáu thì nghỉ và bụi đời luôn. Bố nó mất sớm từ lúc nó lên ba, mẹ nó xoay xở cho cả gia đình bằng nghề mua hàng ngoài chợ vào bán cho dân đãi thiếc. Nó có một người chị mười tám tuổi, chị Mai làm tiếp viên nhà hàng. Có lần, tôi còn thấy chị Mai đưa cả người yêu trọc đầu, xăm mình về nhà ởø. Lúc chúng tôi đến tìm nó khi nó vừa bỏ học là lúc mẹ nó đang ầm ĩ. “ Con Mai đâu rồi ! Mười giờ mà chúng mày còn ngủ à ?” . “ Tui đang mệt, có gì đâu mà dậy sớm ?”. “ Gạo, cá, rau, tao đã mua rồi đó, dậy mà nấu cơm cho mấy đứa nhỏ. Còn mầy nữa, làm được bao nhiêu đem nuôi trai hết rồi phải không? Ngày hai bữa vác miệng về ăn, chẳng cho tao lấy một đồng…”. Đến đoạn cao trào, bà Hương đi tìm đồ lót bị mất, cãi nhau với chị Mai, tôi đến từ biệt Hường lúc nó đang ôm mặt ngồi khóc ngoài hiên. Cả bọn nháy mắt rủ nhau về, không bao giờ tìm nó nữa !
Một sáng, tôi gặp Hường và con Tí chuột ngồi bốc bún ăn với mắm nêm ngay tam cấp chợ. Trong bộ quần áo nhàu nát, nó gầy gò, tóc xù tổ quạ, mặt mũi lem nhem có lẽ không bao giờ rửa ! Thì ra, nó đã bỏ đi từ sau hôm cả nhà cãi nhau ấy. Nó theo đám trẻ nhặt nhôm nhựa, gặp gì chôm đấy, thậm chí nó còn ăn xin du khách…cũng sống được ! Nó kể rất tự nhiên như kể chuyện ăn quà, nhảy dây thời còn đi học lớp bốn, lớp năm…
“ Thuỷ ! Mày lấy cho tao cái áo da và cái quần bò cỡ nhỏ đi !”. Nghoảnh lên thấy Hường, mặt đầy phấn, mắt kẽ xanh lè, môi bôi son đỏ lừ, nức mùi nước hoa, khác với con Hường bụi đời mà tôi nhìn thấy ngày trước. Tôi ngạc nhiên : “ Ôi Hường ! Lâu nay đi đâu, tao không thấy ?” .”Tao cũng lanh quanh thành phố này thôi”. “Tao đi phố hoài có trông thấy mày đâu ?”. “ Ban đêm tao mới đi làm, còn ban ngày tao ngủ, mày làm sao mà thấy được?”. Nó vừa nhún vai vừa trả lời tôi, trông rất điệu nghệ. Thì ra, từ lâu nó sống với đám trẻ bụi đời, hôm nào không có chỗ ngủ nó mới về nhà qua đêm. Nó đi theo chị Mai làm tiếp viên lúc vừa chớm thiếu nữ, khi chưa đến tuổi mười sáu ! Tôi thực thà : ” Công việc mày có cực lắm không ? Bữa nay tao thấy mày “ người lớn” quá rồi đó”. Nó cười :” Tao người lớn lâu rồi, chứ đâu chờ đến lúc mày nhìn thấy” . Khi tôi tò mò hỏi công việc, nó nói như khoe :” Ở nhà ngủ, khi nào cò gọi điện thoại, nhảy xe ôm đến nhà hàng hoặc quán karaoke, ngồi uống với khách và chiều họ… thế là có tiền !”. Nó kể chuyện nhầy nhụa của nó cũng vô tư như cách đây sáu năm nó kể chuyện đi nhặt phế liệu, đi ăn trộm vặt trong chợ ! Vì là hàng “treo”, tức là hàng đã tuyển vào loại nhất nên rất đắt,, nó trả hơn triệu bạc, đúng theo giá ghim trên quần áo mà chẳng mặc cả đồng nào !
Trong lúc Hường ngon lành kể cho tôi về ‘” thân thế, sự nghiệp “ thì bố tôi đến. Nó khẻ chào bố tôi rồi rút êm . Bố hỏi :“ Con ấy nó mua cái gì đó con ?”. “ Dạ….áo da và quần bo,ø bố ạ!”.” Nó mà thấy mặt bố là nó tránh ngay, kể ra nó cũng còn biết xấu hổ”. “ Sao nó lại phải xấu hổ hả bố”. “ Có lần bố ra ngủ đêm ngoài sạp để giữ đồ, hôm ấy hơi muộn, nghe tiếng người trong sạp, bố bật đèn sáng mới thấy rõ, thì ra nó dắt khách vào khoanh trong góc gian hàng của mình. Bố giận quá chỉ biết hét, chưa kịp làm gì , chúng nó đã ôm vội quần áo chạy mất…”. “ Vậy bố không nhớ nó là đứa nào à ?”. “ Làm sao bố biết được ba cái thứ đó ! “. “ Nó là con Hường, bạn học cùng lớp với con hồi nhỏ đó !”. Tôi kể cho bố tôi nghe về Hường, về thời nó cùng học với tôi. Nhà tôi ở gần trường, là điểm để nó chờ mẹ hoặc chị nó đón về sau buổi học. Gia đình tôi ai cũng thương và quan tâm tới nó chẳng khác gì tôi. “ Vậy mà…”. Bố tôi chợt buồn, thở dài sườn sượt. Lâu lắm, tôi mới thấy bố tôi buồn như thế.
Những ngày còn dạy học, mỗi chủ nhật bố con chúng tôi hay đi phố, mua sách, uống cà phê. Chúng tôi vào một quán cà phê mà bố gọi là quán cũ vì ông đã từng uống ở đây hằng mấy mươi năm. Cái quán không rộng lắm nhưng thoáng, có cửa kính nhìn ra phố, tường vàng, ghế nâu tạo nên cảm giác ấm cúng. Quán còn có những bức tranh chép lại của các hoạ sĩ danh tiếng, nhạc êm dịu, làm cho quán có một nét rất riêng. Trong khi bố tôi với cà phê đen nóng thì chị em tôi ly sữa hoặc nước chanh. Những câu chuyện về thời sự, những vấn đề văn học, âm nhạc cùng với những người bạn làm bố tôi có thể mất hằng tiếng đồng hồ mà vẫn thích thú. Từ ngày nghỉ dạy, bố ít khi dắt chúng tôi đi chơi, bố cũng ít đọc sách, cây đàn ghi-ta của bố nằm trong bao im lìm trên tường chẳng mấy khi được đụng đến. Công việc nặng nhọc vì cơm áo gia đình đã chiếm hết thời gian của bố tôi . Từ một người dạy học trắng trẻo, nho nhã, bố tôi đã đen sạm, phong trần, mặt nhiều nếp nhăn,tóc nhiều sợi bạc, nhưng cái chất nhà giáo của bố tôi không bao giờ mất được. Những ngày chạy xe ôm, khi thành phố có nhiều khách du lịch nước ngoài, nhiều người thấy khách Tây ba lô xuống xe, họ đi kè theo đến khách sạn để đòi tiền hoa hồng . Thấy khách ra bến xe, họ đi theo ra tận bến, để lấy tiền cò của nhà xe, mặc dù khách đã có đủ các chi tiết trong sách hướng dẫn du lịch, chẳng cần ai giới thiệu hay hướng dẫn. Còn bố tôi, ông sẵn sàng giúp đỡ khách mà không đòi hỏi gì ca, điều này làm cho một số đồng nghiêp xe ôm của bố không ưa, nhưng họ kính trọng bố tôi hết mực. Có lần, một bà ở Hà Tây vào thành phố này lần đầu, nhờ bố chở tìm người chị ruột. Đi hằng tiếng cũng khoái, vì ít ra cũng được vài chục, nhưng đi cả ngày thì không biết tính bà ấy bao nhiêu, vì tính nhiều thì bà ấy lấy gì để trả, bố tôi bảo thế. Đã vậy, bố tôi còn đưa bà ấy về nhà cơm nước, nghỉ ngơi rồi đi tìm tiếp. Cuốc xe một ngày rưỡi, cùng với cơm nước ở nhà, xem như “ giúp người cơ nhỡ !“. Rồi, có trẻ đi lạc, cô khùng bị hiếp đáp, bố tôi lại ra tay. Người ta gọi bố tôi là “ Chủ tịch Uỷ ban bảo bệ bà mẹ trẻ em “là vậy !
Con Hường bất ngờ gặp bố tôi, nó vội cúi đầu :” Con chào thầy ạ !”, đường hoàng. Bố tôi gật đầu, vui vẻ như đã quên chuyện cũ. Suốt những ngày hè còn lại, nó hay ra “chợ đồ sôn” chơi với tôi, không còn sợ bố tôi như trước. Hường biết nhiều chuyện ngoài phố, ngoài chợ lắm, chính nó đã kể những giai thoại về bố tôi với một sự ngưỡng mộ. Tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, liền bị nó mắng :” Mày học hành giỏi giang lắm, chuyện gì cũng biết, mà những chuyện của thầy Thiện, mày không biết !”. Bố tôi có bao giờ đem những “chuyện ngoài chợ” kể cho tôi nghe đâu !
Có lần chị Len-kinh-phong bưng mẹt tăm và bánh rán đến mời, Hường xua tay đuổi kịch liệt, bị bố tôi giảng cho một bài về lòng nhân ái, tính vị tha, nó dạ một phép. Chị Len là dân cựu trào trong chợ. Chị bỏ nhà, lang thang ở đây từ nhỏ. Chị Len bị bệnh kinh phong, có khi đang đứng, chị lăn dùng ra, sùi bọt mép, tay chân co giật trông thật dễ sợ. Nhiều bà biết bệnh của chị, lấy dầu gió xoa bóp một hồi, chị tỉnh lại. Trường hợp không ai giúp đỡ gì, chị nằm khoảng mười phút rồi trở lại bình thường. Khi tôi biết chị Len lần đầu, chị đã là một thiếu nữ, nước da ngăm đen, khuôn mặt to bè với mái tóc cắt ngang nham nhở, thật khó coi. Cái dáng mập phục phịch của chị làm ai cũng nhận ra cho dù chị mới xuất hiện từ xa. Không biết ai bày, chị đi bán tăm và bánh rán quanh chợ. Tôi chẳng thấy ai mua hàng của chị bao giờ trừ những lời xua đuổi vì cái bẩn thỉu, nhếch nhát, mất vệ sinh của chị. Cái mẹt của chị Lan thường còn nguyên mấy cái bánh rán và mấy bó tăm, nhưng thỉnh thoảng có trái cây, bánh mì, nắm xôi do người ta cho chị. Đôi lúc, tôi thấy chị Len ngồi trong góc hàng phở, hay hàng bún trong chợ, sì sụp ăn uống. Có lẽ các cô bán hàng thương, cho chị ăn chứ chị lấy tiền đâu mà xài sang ! Thỉnh thoảng, chị Len vào “ chợ đồ sôn” bán hàng. “ Len ! Mầy ăn bánh mì không ?”. “ Len ! Mày ăn xôi không ?”. Những tiếng gọi từ mấy sạp “đò sôn” cứ vang lên như vậy và chị Len có bánh mì, có xôi.
Đùng một cá, Chị Len có bầu ! Tin chị Len có bầu trở thành chuyện thời sự nóng sốt trong chợ cả tháng trời. Tôi biết chuyện này do Hường kể lại. “Chợ đồ sôn” toàn đàn bà, con gái, vốn biết và hay nói nhiều về “thời sự chợ búa”, nhưng việc chị Len có bầu thì mù tịt. Chi Len chẳng kể gì với ai, âm thầm đi bán hàng với cái bụng mỗi ngày mỗi lớn. Mỗi lần ai hỏi về cha đứa bé, chị đều trả lời :” ông Khiêm !”. Ông Khiêm là ông già hơn năm mươi, làm trưởng ban quản lý chợ. Biết có đứa ghét mình, chơi ác, xúi dục Len, ông Khiêm bực nhưng chẳng làm gì được. Từ khi mang cái bụng, trong câu mời của chị còn thêm câu “ để có tiền nuôi con “, nên hàng chị nhiều lúc không bán được mà trong mẹt vẫn có tiền. Đó là tiền do bà con ở chợ cho chị.
Vào năm học mới, bố tôi hạn chế việc tôi ra “ chợ đồ sôn” . Suốt thời kỳ chị Len mang bầu, tôi gặp chị một lần duy nhất khi cái bầu đã to tướng. Dưới trời mưa tháng sáu, chị Len đội chiếc nón lá rách, phủ tấm ny-lon trước bụng, không biết chị muốn che cái mẹt hàng hay che đứa con trong bụng mình, thấy mà đứt ruột! Vai, lưng chị ướt sũng, tóc bê bết vào mặt, chị đi trong mưa miệng không ngớt rao hàng…Trông chị Len, tôi thấy như chị mang hết những nỗi khó nhọc, hẩm hiu cùng cực. Chị là hiện thân những gì bất hạnh của một kiếp người ! May mà đầu óc không bình thường, sống theo bản năng, vô tư nên chị mới cam chịu được. Có lần, chị Len đem mớ quần áo xanh đỏ kiểu mới ra gạ bán, tôi cho chị ít tiền, không mua vì mua đồ ấy thì phải giặt. Sau này, tôi biết đó là quần áo con Hường cho chị, cũng như nó đã cho tiền chị nhiều lần…
Năm Long và thằng Tư Hoà là hai thanh niên lông bông ngoài phố, đến gạ xin tiền trong “ chợ đồ sôn “. “ Năm Long là cái thằng đầu trọc, xâm mình, bồ cũ của bà Mai nhà tao ấy mà, sau thời kỳ với bà Mai, nó lấy một con “ ca ve” ở Ngọc Dung, mấy năm rồi bị đá, bây giờ nghiện xì ke, lang thang xin xỏ, trấn lột. Nó cà khịa ra “hàng mình” kiếm sống, tao chỉ mặt, la làng, Công An bảo vệ chợ đến bắt, còng tay, nó năn nỉ thầy gần chết…”. Con Hường phấn kích kể chuyện tôi nghe như khoe một thành tích. Nó gọi sạp “đồ sôn” của tôi là ‘ hàng mình “ một cách tự nhiên, tôi thấy thương nó quá ! Quả tình nó sống rất cô độc. Mẹ nó đi buôn trong bãi thiếc, lấy một người làm thiếc trẻ hơn bà đến vài chục tuổi, một thời gian rồi bỏ nhau, bà mua bán lang thang trong rừng mấy năm, bệnh tật, bây giờ bà đã chết. Chị Mai thành gái già, không làm tiếp viên nữa, đêm đêm vẫn ra phố nhưng chỉ làm dịch vụ cho vay tiền góp cho dân làm ăn đêm. Hường đang thời kiếm tiền được, nó thuê hẳn một căn phòng trọ, ở với bà già vừa là ô-sin vừa là má nuôi của nó. ” Kiếm được ít vốn, tao giải nghệ, làm một sạp hàng ở chợ, hoặc mở một tiệm uốn tóc…”. Hường tâm sự với tôi không thiếu thứ gì. Thương đứa bạn từ hồi để chổm, tôi lắng nghe chuyện Hường, không phê phán nó điều gì chỉ cung cấp cho nó những thông tin về những đứa bạn cũ. Bạn cũ là đám con nít ngày xưa của tôi với no,ù nói không bao giờ hết.
Tôi tốt nghiệp phổ thông, đỗ đại học kinh tế. Vũ, vừa vào cấp ba. Hai chị em tôi qua được hai cái “ải” ấy, bố mẹ tôi mừng lắm ! Mẹ tôi đã yếu lại không thể theo học “chuẩn hoá” đại học sư phạm được nên nghỉ dạy, ở nhà phụ với bố tôi công việc “ chợ đồ sôn” . Bấy giờ, bố tôi chạy hàng nhiều hơn. Bố tôi cung cấp hàng cho nhiều người bán lẻ, mẹ tôi thường trực ở sạp nên doanh số cũng khá hơn. Mỗi lần ra “ chợ đồ sôn”, tôi như về lại nhà cũ, các cô, các chú ở chợ đếu quý tôi, có lẽ vì họ quý bố tôi ấy mà. Ai cũng hỏi thăm chuyện học hành thi cử của tôi và đều tỏ ý vui mừng cho “ con gái rượu của thầy Thiện” đỗ đạt. Tôi chợt thấy trong gian hàng cô Ly sát bên hàng nhà tôi, có một đứa bé bụ bẫm rất dễ thương say ngủ. “Con của con Len đó Thuỷ!”. Oâi ! thằng cu dễ thương này là con của chị Len sao ? Đã lâu không ra chợ, đúng là có nhiều thay đổi quá ! Thì ra chị Len sinh con trai. Hôm chị Len chuyển bụng, mấy cô ở “chợ đồ sôn” đưa chị đi bệnh viện, mấy ngày sau, mẹ chị Len ở dưới huyện mới lên. Chị Len về nhà mẹ mình ở mấy tháng rồi bồng con lên thành phố. Cái tật khùng khùng, muốn đi thì đi, gia đình chị cũng không ngăn được. Chị Len không còn bị giật kinh phong bất tử , không còn lượm thượm, bầy hầy như trước nữa. Mỗi sáng, Chị Len bồng con đến “ Chợ đồ sôn”, sau khi cho bú xong, để thằng bé ở đó, rồi chị xuống chợ dưới làm việc. Chị Len phụ bán phở cho cô Tư là một hàng phở rất đông khách. Lúc nào nhớ con, chị leo mấy bậc tam cấp lên “chợ đồ sôn”, còn không thì giao con cả ngày cho “các bà ngoại hàng sôn” không sợ đói rét gì cả. May mắn là thằng bé rất dễ chịu, ai bồng bế cũng được. Ai cũng thương nên hết người này đến người khác chăm sóc nó. Các “bà ngoại hàng đồ sôn” mặc sức chăm chút từ cái áo, cái quần, đến mũ, đến vớ cho nó thoải mái. Thằng bé quả là cháu chung của “ chợ đồ sôn” vì chính các “bà ngoại” này đã cương quyết không chịu cho đi thằng bé khi mẹ nó vừa sinh…” Nào, cho dì bế một tí nào!, thương quá, tôi ôm thằng be ùvào lòng, nó vẫn say ngủ. Thằng bé hé mắt, nhoẻn miệng cười, rất ngộ ! Cả người nó toát lên một mùi thơm, mùi thơm của sữa! Giòng sữa của chị Len, của người mẹ bệnh tật, khốn khó !
Đến “Ngày Nhà Giáo” năm ấy, gia đình tôi thật náo nhiệt, từ sáng đến chiều nhà tôi luôn có khách. Đó là học trò cũ của bố mẹ tôi, hầu hết là học trò của mẹ tôi vì bà vừa nghỉ dạy chưa đến hai năm. Tôi vui là có Hường đến. Nó diện bộ veste mầu rêu ra dáng rất “quý bà”. Nó biếu mẹ tôi chiếc khăn len, bố tôi chai rượu và phần tôi là hộp kẹo, loại kẹo mà chúng tôi vẫn thích khi còn bé. Cảm động nhất là lúc nó cầm bó hoa :” Con xin chúc thầy cô mạnh khoẻ, hạnh phúc !”. Lúc ấy, trông nó hiền và ngoan đến dễ thương. Bố mẹ tôi giới thiệu nó là ” Học trò cũ” với các anh chị khác, làm nó sung sướng trào nước mắt !
Học ở Sài Gòn, không có lúc nào tôi không nghĩ đến bố mẹ tôi, đến chiếc xe cub cũ kỹ của bố tôi chạy xe ôm, đến cái “ chợ đồ sôn “ và những người cư dân thân thiết ở đó. Tôi nghĩ đến chị Mai, đến Hường, đến chị Len và cả thằng cu Tí của chị Len nữa…Có những người dù chỉ ít nhiều quen biết, nhưng số phận nhỏ nhoi của họ đều là một ràng buộc tinh thần to tát với tôi…/-
|