Những năm ba mươi, thế kỉ 20 - nền Văn Học Việt nam bỗng chuyển mình sau sự tĩnh lặng triền miên nhiều thế kỉ. Giống như chàng trai vùng khỏi chăn ấm, nệm êm sau cuộc truy hoan mê mệt. Văn, Thơ, Nhạc, Họa, Kịch nghệ, Biểu diễn - Tất cả - sôi động trong không khí tìm tòi sáng tạo. Kết qủa: Những tác ohẩm có gía trị Nhân văn và Nghệ thuật ra đời, trở thành sản phẩm trí tuệ, kinh điển của Văn Chương - Nghệ Thuật Việt Nam Đương đại.
Nổi bật nhất phải kể đến cuộc cách mạng Thi ca, (ngày nay chúng ta gọi là Phong Trào Thơ Mới). Ai cũng biết: Thơ là sự trình bầy Tiếng Lòng bằng Ngôn ngữ đầy hình ảnh , âm thanh cùng phương pháp diễn đạt bằng ngôn từ. THƠ MỚI - đã mang lại cho Thi đàn Việt Nam luồng gió mới, tạo ra những tác phẩm để đời khiến các thế hệ nối tiếp đi theo, phát triển... Bằng những thể thơ ’’Phá cách’’, Thơ Mới đã diễn đạt, tái hiện ’’tiếng lòng’’ trọn vẹn không gò bó như thể thơ truyền thống của dân tộc, của qúa khứ nghìn năm…(1).
Nền Thi Ca Việt đã xuất hiện nhiều ngôi sao sáng chói. Các tác phẩm của họ được lưu truyền, cổ vũ, trở thành di sản qúy báu của Văn hóa Việt Nam.
Thế nhưng có một người, dù thi phẩm của ông rất độc đáo lại không được dư luận tôn vinh: Đó là Nguyễn Vỹ. Một khuôn mặt có cá tính, có những dấu ấn đặc biệt, gai góc - trong giòng chảy thi ca đương thời.
Nguyễn Vỹ – theo Hoài Thanh viết trong Thi Nhân Việt Nam (TNVN): Người huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Sinh năm 1910. Thời thanh niên đã từng cắt tóc đi tu. Tu không thành, phá giới đi gánh cát thuê ở bãi sông, bán kẹo ở Hà Nội, bán báo ở Sài Gòn rồi về hẳn Hà Nội định cư, sống bằng nghề viết văn, cùng bạn văn đất Hà Thành làm báo.
Theo ông Đỗ Đình Thọ (2) kể lại trong Nguyễn Bính – Thơ và Đời : Nguyễn Vỹ rất giỏi tiếng Pháp, làm thơ tiếng Việt khá hay… Một giai thoại văn chương thời đó lưu truyền: Trong một lần Trưởng phòng Kiểm duyệt báo chí của sở Mật Thám Bắc Kì - René Creyssac (R.C) - ‘’tạ sự’’ đến thăm nhóm Pháp - Việt mà theo tin tức mật vụ thu nhận được: Nhóm có xu hướng ‘’Dân chủ - Tự do’’ gồm 3 người chủ chốt: Thi sĩ Nguyễn Vỹ, Thi sĩ Nguyện Bính, Họa sĩ Nguyệt Hồ. Họ quyết định đánh tan ấn tượng của R. Creyssac bằng cách rủ y đi ăn, nhậu sau đó hút thuốc… Phiện ở tiệm Phi Yến Thu Lâm phố Mã Mây.
Để quảng bá cho thương hiệu mình, chủ tiệm cho kẻ chữ Phi Yến Thu Lâm (Yến bay trong rừng Thu), đồng thời vẽ đôi chim Yến bay. Các khách hút, thường tán: Phiện Thú Lắm (Phi Yến= Phiện. Thu Lâm: Thú Lắm). R.N là con cáo gìa trong nghề. Y rất giỏi tiếng Việt, tiếng Hán, thuộc Truyện Kiều và am hiểu văn hóa Phương Đông. Cao hứng và cũng muốn thử tài văn sĩ Bắc Hà, R.C ra một đề cho những người mời ăn - hút cùng làm thơ, hứa rằng nếu bài thơ hay sẽ được thưởng. R.C đọc đề ra:
Phi yến Thu Lâm… nghĩ cũng hay - đoạn dơ tay làm điệu bộ: Xin mời!
Nguyễn Bính nối Ngay:
Nằm trên giường, tựa nằm trên mây
Nguyễn Vỹ nối bằng tiếng Pháp nhưng lại hợp cảnh, hợp tình đúng niêm luật:
Uyn, Đơ, Troa, Cát – Ken- cờ- Píp (quelques Pipes)
Nguyệt Hồ - kết:
Quật ngã A nam, ngã cả Tây!
Bài thất ngôn tứ tuyệt, liên hoàn của cả 4 người, nói về cảnh hút thuốc Phiện và cái thú đi mây về gió, ’’Làm tình nàng tiên nâu’’ - như sau:
Phi Yến Thu Lâm nghĩ cũng hay
Nắm trên giường tựa nằm trên mây
Uyn, Đơ, Troa, Cát – Ken cờ Píp
Quật ngã A Nam, ngã cả Tây!
Quan sở Cẩm chỉ còn biết vỗ đùi khen hay và… Thưởng.
Sự nghiệp thơ của Nguyễn Vỹ có được mấy bài hay. Sương Rơi là bài đưọc nhà phê bình Hoài Thanh đánh gía cao. Thi pháp độc đáo. Mỗi câu chỉ có 2 từ. Nhưng đọc lên, người đọc có những càm xúc khác thường…
Đáng chú ý nhất: Bài Gửi Trương Tửu.
Bài thơ này đề tựa Viết trong lúc say...
Cho đến bây giờ, sau 70 năm, thi đàn Việt Nam chưa hề xuất hiện bài thơ thứ hai ở thể loại này, nói về vấn đề này và Ngôn ngữ lại ‘’sống sượng’’ nhưng rất ‘’Thơ‘’ - đến thế.
Bởi vì đây là giọng, là tiếng của một tài năng đang… say.
Trên đời có 2 loại người chỉ nói thật, không nói dối: Sắp Chết và mới bắt đầu Say. Bài thơ GỬI TRƯƠNG TỬU - là lời của một người đang say. Bài thơ được Nguyễn Vỹ viết ở thể thơ thất ngôn trường thiên liên vận. Toàn bài gồm 6 đoạn, 40 câu, mỗi đoạn nói về một vấn đề. Theo thông lệ của thơ Đường - Mở đề: Tác gỉa nói về nguyên nhân có lá thư Gửi Trương Tửu:
Nay ta thèm rượu nhớ mong ai
Một mình rót uống chẳng hề say
Trước kia hai thằng hết một nậm
Trò truyện dông dài, mặt đỏ xẫm
Nay một mình ta một be con
Cạn rựơu rồi thơ mới véo von
Nhà thơ đang ‘’khát ‘’rượu, có rựơu nhưng lại chỉ có một mình. Rượu ngon… (lại) không có bạn hiền, nên nhớ tới ông bạn rựơu - Trương Tửu, đành tâm sự với bạn trong tâm tưởng rồi khẳng định: Chỉ cạn rượu (say), ‘’thơ mới véo von’’.
Tiếng hót của chim véo von là tiếng hót hay.
Thơ véo von là thơ hay…
Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác
Mà coi đồng tiền như cái rác
Kiếm được xu nào đem tiêu hoang
Rủ nhau chè chén nói huyênh hoang
Xáo lộn văn chương với chả cá
Chửi Đông, chửi Tây, chửi tất cả
Rồi ngủ một đêm, mộng với mê
Sáng dậy nhìn nhau cừơi hê hê…
Có hơi men, ông nhớ về qúa khứ, về thời - cả hai nghèo kiết xác nhưng vẫn hoang toàng trong đời sống, vung vãi kiến thức, tiền bạc trong những trận say túy lúy. Chửi Đông, chửi Tây cho sướng miệng rồi thưởng thức món chả cá ngon có tiếng của đất Hà Thành. Đêm đến tiếp tục say với mộng mơ... sáng dậy không còn nhớ chiếc ‘’Văn tự’’ mua bán… Trời kia. Cả hai nhìn nhau sảng khoái ‘’cười hê… hê’’.
Sau giấc Nam Kha…
Chợt tác gỉa giật mình, liên hệ với cuộc sống của kiếp nhà văn… mình.
Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn A Nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bút nói văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Và nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm giời: Kiết vẫn kiết!
Mà thương cho tôi, thương cho anh
Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh
Ông trở nên bất đắc chí, đem so sánh cuộc sống của ông với kiếp sống của con vật hạ đẳng nhất Việt Nam. Sự so sánh qúa tệ, không thể nào tệ hơn. Hãy bình tĩnh. Đừng tự ái khi gã say ví ta với… ‘’chó’’. Thật ra đây chỉ là Ngoa dụ. Cũng như bảo tay nói phét là Bán trời không văn tự. Trên thực tế: Qủa thực, khi dân trí của người Việt lúc đó còn thấp, mức sống còn qúa nghèo, đầy bất công và đang bị ngoại bang thống trị… tất cả mọi sinh vật sống trên mảnh đất này dù là Người hay là Chó - đều khổ cực, đều như vậy cả…
Riêng nhà văn nghèo, nếu đem con chó của nhà giàu mà so sánh, thì đúng thật!
Dù sao, dù đây là lời của người say nên nói thật bằng Ngoa dụ. Vì Nguyễn Vỹ là Nhà Thơ - Nhà nhơ thường bay bổng. Có bay bổng thơ mới véo von, mới hay.
Nhưng, Người Việt tuy nghèo, đói - song tính sĩ diện thì hết chê, không như người nước khác, coi chó thân thiết như người.... Người Việt không cho phép kẻ nào đem họ ra so sánh với… Chó. Ấy là chưa kể người Việt lại là Trí thức, Nhà văn - một loại ‘’nhà’’, bao giờ cũng đươc xã hội tôn vinh, tự coi mình la cao qúy!
Thi sĩ Tản Đà - hơn Nguyễn Vỹ những 22 tuổi (Tản Đà sinh năm 1888. Nguyễn Vĩ sinh năm 1910) - mến tài, vẫn coi Vĩ như người bạn văn, khi đọc được bài thơ của ‘’hậu bối bất trị’’ - cụ bất bình, hỏi:
- Sao anh lại ví nhà văn chúng mình với chó, anh không sợ xấu hổ à?
Nguyễn Vĩ thản nhiên: Ví như vậy thì chó xấu hổ chú chúng ta xấu hổ cái nỗi gì. (3)
Trời ạ! Đến thế là cùng.
Suy nghĩ ‘’Hơi’’ cực đoan, nhưng chỉ vì cuộc sống bế tắc, vùi mình tắm trong men rượu nên Nguyễn Vỹ hơi qúa đà. Song, ngay trong mê mệt, ông vẫn hướng tới giấc mơ cao đẹp, hoành tráng, đầy hoang tưởng:
Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng
Tôi làm Trạng Nguyên, anh Tể Tướng
Và anh bên Võ, tôi bên Văn
Múa bút tung gươm há một phen
Rồi tỉnh hẳn, liên hệ với thực tại, so sánh:
Chứ như bây giờ là trò chơi
Làm báo làm bung, chán mớ đời
Anh đi che tàn một lũ ngốc
Triết lí con Từơu, Văn chương Cóc (4)
Còn tôi bưng thúng theo đàn bà (5)
Ra chợ bán văn, ngày tháng qua
Đi che Tàn (lọng, Ô) nghĩa là đi làm kẻ hầu.
Anh đi che tàn một lũ ngốc. Còn tôi bưng thúng theo đàn bà ra chợ bán... Văn.
Anh làm Tể tướng, tôi (sẽ) Trạng Nguyên.
Anh bên Võ, Tôi bên văn - để thi thố hết tài năng phụng sự đất nước. Nguyễn Vỹ dám mơ tới giấc mơ xa vời...
- Thế nào là ‘’Triết lí con Tườu’’?
- Con Tườu là con Khỉ.
Người Trung Hoa coi con Khỉ, tập trung của cái xấu trước tiên là ngoại hình. Khi ghét người nào đó, họ thường nói câu cửa miệng: Mày hãy soi gương xem cái ‘’Tướng Khỉ’’ của mày đi, hay: xem cái tường khỉ của cậu – kìa!
Hình dạng của Khỉ đúng xấu.
Nhưng khó chịu nhất: Khỉ hay bắt chước và không có chút ‘’lịch sự’’ tối thiểu như mọi con vật khác. Khi thấy nhiều người xúm vào xem… Hậu duệ của lão Tôn – ‘’Hoa qủa vương’’ - sẵn sàng thản nhiên vạch chỗ kín ra… gãi hoặc nghịch… bậy mà lẽ ra theo cách nghĩ của người: Phải kín đáo, dấu tiệt!
Con Tườu là vậy.
Triết lí của con Tườu là thư triết lí của kẻ hay bắt chước, triết lí đậm ’’Hầu... phẩm’’!
Còn ‚’’Văn Chương Cóc’’?
Là loại văn chương không ra văn chương.
Ẩn dụ này bắt ngưồn từ câu Thơ Con Cóc: Con cóc trong hang/....nhẩy ra/... ngồi đấy/ ... nhẩy đi - Nghĩa là không ra thơ. Ai chả biết như vậy, cần gì phải đưa vào thành thơ? Có rất nhiều minh chứng về ẩn dụ này. Lấy một thí dụ: Có hai ’’Nhà Thơ’’, rất thích thơ, rất thích làm khổ người ta bằng những vần thơ của mình. Hai vị thường cổ vũ khích lệ nhau bằng cách nghe thơ của nhau rồi khen nhau. Một lần, một ‚’’Nhà’’ đến cùng bạn ngâm vịnh. Sau một hồi tán dương... một vị nẩy ra ý: Những nhà thơ lớn thường ra đề cùng ngâm vịnh. Chúng ta cũng thử theo gương họ xem sao.
- Cũng được. Bây giờ tôi ra đề trước - nhà thơ A nhìn quanh - thấy trước sân có chuồng chim câu, hai vợ chồng chim đang ở cửa chuồng mớm cho con... Vị kia chỉ chim, nói: Bác hãy vịnh chim câu, đi!
Ông nhà thơ B suy nghĩ, gật gù ... đọc:
Bốn cột chênh vênh đứng giữa trời
Đứa thì bay bổng, đứa bay khơi
Ngày sau nó đẻ ra con chắu
Rán chả băm viên đánh chén chơi.
Đúng là thơ, đúng niêm, luật, tiết tấu… nhưng tứ thơ chỉ ‘’hơi bị’’… vớ vẩn.
Thế nhưng ông ra đề vỗ đùi khen: Hay, tuyệt trần đời.
Ông kia cười tit mắt. Sau tràng cười và nâng li, ông B đến lượt ra đề. Nhìn quanh thấy con Vàng đang nghếch mõm nhìn chủ, chờ miếng xương chủ gặm sạch, thảy xuống. Chủ nhìn bạn nghiêm nghị: Bác vừa ra đề vịnh con bay trên trời, giờ đến lượt tôi: Bác hãy vịnh con chạy dưới đất!
Nhà Thơ A không cần nghĩ ngợi, đọc luôn:
Chẳng phải Voi, chẳng phải Trâu
Đó là con Chó: Cắn gâu gâu
Khi ngủ với nhau thì phải đứng
Quanh năm chẳng được chén chè tầu
Văn chương Cóc, Phú, Thơ - Con Cóc - là như thế đó!
Từ chuyện những người tự xưng là Nhà Thơ, làm ra thơ, nhưng dân gian đọc không vào (được tim, óc), liền ví thơ của họ là Thơ Con Cóc và xếp họ vào rọ nhà thơ… ‘’Cóc’’ – (Hơi khác nghĩa với ví von của Dân gian: Xấu như cóc… tía)!
Người ta có thể hiểu Thơ Con Cóc theo nhiêu cách: Nâng lên… khái quát hóa… và gán cho nó nhiều ý nghĩa bằng những bài viết, bài nói tràng giang đại hải theo kiểu ‘’Chẻ sợi tóc làm tư’’. Nhưng thực chất Thơ Con Cóc, văn chương Cóc - chỉ nói một ý nghĩa chủ đạo: Thơ văn không ra thơ văn.
Không cần tán dương bài thơ con cóc làm lạc hướng, lạc đề. Người đời chỉ quan niệm Thơ Con Cóc là loại thơ kém chất lượng nghệ thuật, chứ không đọc bài thơ con Cóc để thưởng ngoạn. Chắc ít người chịu khó ngồi tỉ mẩn đọc chậm…bài thơ con cóc để tìm ra cái hay của tác phẩm nghe đâu là của vua Lê Thánh Tông.
Và nếu có đọc, chẳng hề nhận ra cái gía trị sâu xa của nó. Bởi vì thực chất toàn bài thơ chỉ mang tính ẩn dụ, chỉ thuần túy là ví dụ tác phẩm của những nhà thơ bất tài. Người đời chỉ mượn hình thức của nó làm Ẩn dụ, thậm chí làm Ngoa dụ - cho một kết luận mang tính khái quát!
Cho nên tôi buồn không biết mấy
Đời còn nhố nhăng, ta chịu vậy
Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa
Bực chí thành say, mấy cũng vừa
Mẹ cha cái kiếp làm thi sĩ
Chơi nước cờ cao lại gặp bĩ
Rồi đâm ra điên, đâm ngẩn ngơ
Rút cục chỉ còn mộng với mơ !
(Viết trong lúc say - Báo Phụ nữ 193…(?)
Cuối cùng – sau khi đã tỉnh hẳn, nhà thơ nhớ lời tiền nhân: ‘’Lập thân tối hạ thị văn chương’’’, tự chửi đổng, chửi mình có cái ‘’tư duy’’: Buôn lậu, cơ hội , đi Tắt hòng muốn nổi danh mà không có thực tài. Lại nữa, nhiễm nặng tật thắu cáy học được trong những canh bạc Xì tố. Nhà thơ chắc mẩm đã ‘’chơi nước cờ cao’’ nhưng thực tế, té ra - cuộc thắu cáy lại rất thấp nên gặp Bĩ, thua đâm, thất vọng, rồi đâm ra ngẩn ngẩn, ngơ ngơ....
Đột nhiên, hình ảnh của người điên bỗng vụt hiện ra: Nhà thơ đâm sợ!
Thi sĩ Nguyễn Vỹ là điển hình cho một lớp văn nghệ sĩ bế tắc - thời xưa…
Thế nhưng, thời nay cũng không thiếu những ‘’Tao đàn mặc khách’’ - có tâm trạng như Nguyễn Vỹ.
Bởi vậy dù đã tồn tại hơn 2 phần ba thế kỉ, thơ ít được nhắc đến, tác gỉa không được tôn vinh. Nhưng thi phẩm của Nguyễn Vỹ vẫn đã, đang và sẽ tồn tại cùng thời gian.
Những vần thơ…
Những hành động, ngôn từ của ‘’ thi sĩ qúai kiệt’’ khiến Hoài Thanh đâm bức xúc nhận xét ở bài viết về Nguyễn Vỹ - trong TNVN:
‘’Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ ra xem nhưng lại tưng hửng trở vào…’’.
Nhà phê bình thể hiện sự bất bình vì ‘’Qúai Thơ’’ tuôn ra NGOA DỤ… làm ông ‘’…inh cả tai’’ (nhức óc). Trên đời này, con người không thích ai quấy rầy, nhất là làm họ inh tai, ù tai dù họ đáng để các nhà Thơ, nhà văn chân chính cho… ù tai! Cái tai do trời ban cho có hình thù đặc biệt. Âm thanh dội vào được các vành tai uôn lượn đưa nhẹ nhàng vào màng nhĩ. Âm thanh càng thẽ thọt, hiệu qủa càng cao, càng tốt. Âm thanh làm đinh tai, nhức óc thì người nghe không chịu được sẽ nổi cắu, thậm chí phát điên…
Nguyễn Vỹ đã làm nhiều người nghe inh tai.
Nhưng, vì nói thẳng, nói thật bằng Ngoa dụ, Gửi Trương Tửu vẫn có nhiều người thích nghe, thích đọc. Thơ Nguyễn Vỹ sẽ vẫn có ích cho đời, không mất đi gía trị nhân văn, đặc biệt là tính thời sự!...
Cổ nhân dậy: Nói thật, mất lòng.
Đã vậy lại còn cường điệu sự nói thật lên thành Ngoa dụ - càng làm mất lòng nhiều người hơn. Nhất là lại làm ‘’nhức đầu’’ những ngươi có quyền thế thích nghe phỉnh nịnh…
Berlin – Tháng 7 năm 2006
(1) – Thơ cũ (Đường luật, song thất lục bát…) có rất nhiều quy cách. Thơ mới không có quy cách, không câu nệ khuôn mẫu.
(2) - Nguyễn Bính – Thơ và Đời, nxb Văn Học 2000
(3) – Thi nhân Việt Nam. NXB Văn học 2000.
(4) – Trương Tửu lúc đó viết cho báo Hữu Ích của Lê Văn Trương
(5) - Nguyễn Vỹ viết cho báo Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Thảo. Thời xưa, ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, các Bà, các cụ đi chợ thường đội thúng, khi đến chợ hạ thúng, bưng thúng… bầy hàng bên trên mẹt đậy – bán cho khách.