THAY LỜI DẪN
Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..
Newvietart xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :
a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)
b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).
c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc, sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)
d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.." (Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).
BÀI THỨ 10
PHẦN THỨ TƯ
Tiết 1. – Từ Phan Khôi văn xuôi có vần đến thơ mệnh danh Thơ Mới.
Tiết 2. – VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Tiết 3. – HUY CẬN
Tiết 4. – LƯU TRỌNG LƯ
Tiết 5. – HÀN MẶC TỬ
Tiết 6. – NGUYỄN BÍNH
Tiết 7. – THÂM TÂM VÀ T.T.KH.
Tiết 8. – TRẦN TRUNG PHƯƠNG
Tiết 9. – TRẦN HUYỀN TRÂN
Tiết 10. – Sơ lược về các nhà thơ khác:
CHẾ LAN VIÊN - NGUYỄN NHƯỢC PHÁP - VŨ ĐÌNH LIÊN - TẾ HANH - ĐOÀN VĂN CỪ - HUYỀN KIÊU -LAN SƠN - HUY THÔNG - HỒ DZẾNH - NGÂN GIANG.
Tiết 11. – Kết luận về Thơ Mới.
TỪ PHAN KHÔI THƠ XUÔI CÓ VẦN ĐẾN THƠ MỆNH DANH LÀ THƠ MỚI.
Ngày 10 tháng 3 năm 1932, trên báo Phụ Nữ Tân Văn (số 122), ông Phan Khôi đề xướng thơ mới bằng cách cho đăng bài thơ xuôi có vần Tình Già, khiến tác giả Giấc Mộng Con Tản-Đà-Nguyễn-Khắc-Hiếu phản kháng dữ dội. Tản Đà cho rằng thơ Phan Khôi không có gì là mới cả.
Sau đó, Thế Lữ, Nguyễn Xuân Huy, Vũ Đình Liên, Nguyễn Vỹ, Lan Sơn, Xuân Diệu, Huy Cận, Đỗ Huy Nhiệm, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương, Chế Lan Viên, Phạm Huy Thông vv… đã làm cho độc giả chúng ta say sưa, rung cảm với những vần thơ mệnh danh là Thơ mới. Và thịnh hành từ giai đoạn đó. Thơ Đường luật gò bó, trúc trắc, thơ thất ngôn ép vận, thơ lục bát bình dân quá (quan niệm của người viết thơ mới hồi ấy). Không thể diễn tả nổi tâm hồn thi nhân rung cảm, xúc động, không nói hết được cảm hứng rạt rào, điệu nhạc dập dìu. Thêm vào đấy học giả lão thành Phan Khôi đứng đầu đề xướng Thơ Mới, Phan Khôi rất ghét Khúc tiêu sầu của Lãng Nhân (Phùng Tất Đắc); mặc dầu độc giả hồi đó cực kỳ hoan nghênh, mà Phan Khôi lại cho rỗng tuếch. Phan Khôi, bắt chước lối Thơ Mới Hồ Thích đề xướng ở Trung Hoa, khi phong trào Tân văn hóa hoạt động, thơ mới Hồ Thích như Trường thi thư (36) thì Phan Khôi làm bài Tình Già. Tiếp theo, Lưu Trọng Lư viết bài trên báo Phong hóa, tất nhiên có Thế Lữ ám trợ. Bài đăng vào mùa xuân 1933, bênh vực Thơ Mới: "Cái lối thơ mới của chúng ta là đúng vào thời kỳ phôi phai, thời kỳ tập luyện và nghiên cứu. Không biết rồi đây, nó có đi đến chỗ thành công hay là nửa đường bị đánh đổ. Đó là lịch sử bí mật của lịch sử mai sau. Dù thế nào nó cũng có cái giá trị là giúp cho sự tự do phát triển của thi ca…” Thái độ thi sĩ hơi rụt rè, làm nhưng chưa có chủ đích rõ ràng, tuy nhiên thi sĩ vẫn phải theo lao, để cầm bằng sẽ được thắng lợi. Trước, thi sĩ Lưu Trọng Lư đã viết bài trên Phụ Nữ Tân Văn ( tất nhiên Phan Khôi ám trợ đăng) (số 241, tháng 10 năm 1929). Nhân bàn về thơ với nữ giới, ông Trịnh Đình Rư cũng cổ động cho Thơ Mới. Và ông xác định sự hết quyền lực thơ Đường. Còn Thế Lữ im lặng sáng tác, trả lời Tản Đà và nhà thơ cũ bằng nhiều bài thơ mới hay, tứ thơ dồi dào, mạch thơ có nguồn, lời trong sáng, âm thanh êm tai thính giác. Chẳng bao lâu, Phan Văn Dật với Bâng Khuâng, lại tiếp ứng theo, sau này các nhà thơ Vũ Hoàng Chương lại tiếp ứng nữa. Sau Vũ Hoàng Chương, Hàn Mặc Tử cũng đành bỏ thơ Đường theo Thơ Mới. Tiếp đến là Xuân Diệu, Huy Cận làm mưa gió một thời oanh liệt trên thi đàn, và thanh niên nam nữ hồi ấy hưởng ứng. Trước khi phân tích chi tiết thi sĩ điển hình, sơ lược, và trích vài nhận xét tổng quát về các nhà thơ nổi tiếng tiền chiến. Bài viết của Hoàng Huy Giang(37) với ý kiến xác đáng, thâu tóm tổng quát về sự kiện diễn thơ mới tiền chiến:
“...Tuy nhiên, dù các trào lưu văn chương Tây Phương có xâm nhập Việt Nam, nhưng thực ra, xét các thi phẩm hồi gần đây, ta thấy chủ trương của các thi nhân bộc lộ rất lờ mờ khiến người thiếu óc thống quan khó có thể phân biệt và nhận định được chính xác. Thực vậy, chính những người khởi xướng cũng chưa có đủ ý thức rõ rệt về chủ trương của mình, cho nên căn cứ vào những quan niệm sai lầm và thiếu sót của từng thi phái, căn cứ vào kỹ thuật sáng tác thiếu lý thuyết vững vàng của họ, thấy chưa có một thi phái nào có thể có triển vọng cho một tương lai thi nghệ Việt Nam.
Dù sao khách quan mà xét quá trình phát triển của nền thơ mới, chúng ta cũng phải thành thật nhận rằng các thi gia hiện đại đã ghi lại được ít nhiều đáng kể, đánh dấu một bước tiến trong nghệ thuật thi ca Việt Nam, nhất là về phần hình thức. Nên thơ mới có từ bài “Tình xưa” (Tình Già?) của Phan Khôi làm theo thể tự do, không bó buộc bởi niêm luật cũ, đã phát triển mạnh trong một thời gian rất ngắn. Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử… đã diễn tả những tứ thơ thật sâu sắc, thiết tha trong hình thức thơ mới rộng rãi. Ngoài những thi sĩ thuộc phái "ý mới, lời mới" này còn có nhiều thi sĩ khác mượn hình thức thơ mới để diễn đạt ý mới như Nguyễn Giang, Quách Tấn hoặc nhiều thi sĩ sáng tác thơ, ý và lời nửa mới nửa cũ như Vũ Hoàng Chương, Lưu Trọng Lư. Ngoài ra còn có một số thi sĩ sáng tác theo đường lối riêng như Nguyễn Bính diễn tả những tình cảm chất phác hiền hòa dưới thể lục bát bình dân. Huy Thông bộc lộ tình cảm hùng mạnh của thanh niên trong những lời thơ đanh thép, Đoàn Văn Cừ, Nam Trân, Anh Thơ, biểu hiện tình cảm êm đẹp trong những bài thơ tả cảnh mộc mạc.
Đọc những áng thơ của những thi sĩ hiện đại, nghệ cảm của mỗi người tùy theo biểu hiện trong thi phẩm đều mang một sắc thái riêng biệt. Lưu Trọng Lư say sưa với cái đẹp lý tưởng của người và của tạo vật tấm lòng lúc nào cũng mơ mộng và thực của Lưu Trọng Lư khiến người đọc cảm thấy lòng buồn buồn như tiếng của mùa thu...."
Tiếng Thu, âm thanh dìu dặt của mùa thu đìu hiu lặng lẽ ngân dài muôn thuở, có ai còn nghe và cảm thấy? Tiếng Thu ấy làm bâng khuâng bạn đọc với vần thơ nhẹ nhàng:
“...Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng kẻ cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu sào sạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô?"
Ở nhà thơ giàu nghệ cảm này, còn nhiều vần lục bát tuyệt bút. Hãy nghe Lưu Trọng Lư mượn trăng lên tả buổi ái ân đầu tiên của đôi trai gái:
“...Vừng trăng lên mái tóc mây
Một hồn thu lạnh mơ say hương nồng
Mắt em là một giòng sông
Thuyền ta bơi lặn trong giòng mắt em...”
Hoặc mượn một ngày nắng mới, ngày vui tất cả mọi người, khi buồn kể lại quá vãng ngậm ngùi:
“...Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Sao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không
Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
Lúc người còn sống tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới gieo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi...”(38)
Tuy nhiên Lưu Trọng Lư quá chú trọng về nhạc điệu, nên dù thơ có âm thanh dìu dặt vẫn thiếu tính cách hàm súc. Cùng phái “ý và lời nửa mới nửa cũ” như Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương cũng tỏ nỗi buồn man vọng về quá khứ. Nếu thơ Lưu Trọng Lư có những câu:
“...Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân”
Thì ở Vũ Hoàng Chương, đau khổ luôn luôn biểu hiện trong lời thơ:
“Yêu một khắc để mang sầu trọn kiếp
Tình mười năm còn lại chút này thôi
Lá thư xưa mầu mực úa phai rồi
Duyên hẳn thắm ở phương trời đâu đó...”
Thơ Vũ Hoàng Chương đều tỏ lộ tâm trạng thất vọng, bất đắc chí:
“Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai?”
Buồn sự nghiệp không thành, Vũ Hoàng Chương cũng có:
“Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết
Một ván cờ khuya ngả bóng chiều
Ai khóc đời ai trên bấc lụi
Đây mùa thu tới lửa dần thiêu”
Quan niệm nhân sinh trong thơ Vũ Hoàng Chương là quan niệm tiêu cực, yếm thế:
“Đã lâu trăng cứ tuần trăng sáng
Hoa cứ mùa hoa dậy sắc hương
Phai thắm đầy vơi hờ hững nhịp
Lụi dần cho tới lớp tang thương”
Thế Lữ, nhà thơ công đầu trong việc xây dựng thi ca mới biểu hiện lời thơ rung cảm hòa điệu lòng mình với cái đẹp thiên nhiên. Một vẻ đẹp hùng tráng biểu hiện ở ngay một mãnh thú bị giam cầm được Thế Lữ nói lên trong lời thơ tuyệt đẹp qua bài Nhớ Rừng. Thế Lữ là thi sĩ có tài, giầu tưởng tượng, bài thơ Tiếng Sao Thiên Thai thật thần tiên, phong phú nghệ cảm. Ngoài ra Thế Lữ còn là một nhà thơ ca tụng tình yêu nồng nàn:
“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm chưa dễ mấy ai quên?”
Trong nền thi ca mới, Xuân Diệu là nhà thơ mang lại nhiều tứ thơ mới nói lên lời tha thiết làm người đọc ngây ngất. Ta hãy nghe Xuân Diệu gợi một kỷ niệm cũ trong chiều lạnh nhớ người yêu:
“Không gì buồn bằng những buổi chiều êm
Mà ánh sáng mờ dần cùng bóng tối
Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối
Đêm bâng khuâng đôi miếng lẩn trong cành
Mây theo chim về dẫy núi xa xanh
Từng đoàn lớp nhẹ nhàng và lặng lẽ
Không gian xẫm tưởng sắp tan thành lệ
Thôi hết rồi! Còn đâu nữa chi em?”
Ở Xuân Diệu, hồn thơ bát ngát, mơ màng, lời thơ biểu hiện tiếng nói tha thiết của nhà thơ giầu tình cảm. Tuy nhiên, quá chú trọng đến tứ thơ, Xuân Diệu lãng bỏ quên sự lựa lọc, do đó có thi bản thiếu tinh túy Việt ngữ, nhiều câu ngô nghê:
“Lẫn với đời quay tôi cứ đi
Người ngoài không thấu giữa lòng si
Cũng như xa quá nên ta chỉ
Thấy núi yên như một miếng bìa”
Đặc điểm thiếu tinh túy Việt ngữ, chúng ta còn thấy ở Huy Cận. Thực vậy, nhiều bài thơ hai thi sĩ này đượm mầu dịch lại thơ Pháp. Như khi đọc hai câu thơ dịch của Huy Cận mà không nói ra là toát dịch thơ Tây:
“Thâu trong cái ngáp dài vô hạn
Hình ảnh lung lay vũ trụ tàn”
Ta thấy hình bóng sâu đậm của Charles Baudelaire trong Les Fleurs du mal (Ác Hoa):
Et dans un baillement avalerait le monde chả là "Thâu trong cái ngáp dài vô hạn sao?"
Huy Cận khác Xuân Diệu than thân ít, góp tiếng khóc đời nhiều. Người ta thấy ở Huy Cận cái buồn vơ vẩn của nghệ sĩ hơn là sầu thấm thía thi nhân. Ta hãy nghe Huy Cận tả cảnh thu miền rừng giữa một chiều nắng tắt lưng đồi:
“Sầu thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh với lòng quạnh hiu
Non sông ngây cả buổi chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia”
Lời thơ Huy Cận hay và đẹp, ít không gợi cảm vì thiếu đặc sắc. Huy Cận ít đem tâm hồn riêng hòa đồng vũ trụ. Khác với những thi sĩ trên, Hàn Mặc Tử là nhà thơ có rất nhiều tứ lạ trong các thi bản. Chứng bệnh kỳ dị và cuộc đời đau thương Hàn Mặc Tử được diễn tả trong lời thơ thành thực:
“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Cho mê man chết điếng cả làn da.”
Lòng tín ngưỡng Thiên chúa giáo tôn nghiêm thiêng liêng giúp Hàn Mặc Tử thêm nhiều nghệ cảm mới mẻ đặc biệt. Hàn Mặc Tử lần đầu tiên ca ngơi Thiên chúa giáo bằng lời thơ thật chân thành:
“Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh
Run run như thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”
Ngoài ra phần lớn thi nhân đều tỏ lộ tâm trang đau buồn trong tác phẩm thi ca; Chế Lan Viên nhớ tiếc quá khứ đẹp qua vần thơ bi thiết:
“Chao ơi! Mong nhớ… ôi mong nhớ!
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn…”
Bây giờ đi vào phần chi tiết, phần hồn thi sĩ điển hình và sơ lược. Một số nhà thơ như: Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Nam Trân, Đỗ Huy Nhiệm… và nhiều nhà thơ khác nữa chưa có cơ hội nói đến, không phải quên. Và vẫn dụng khi viết chỉ chú ý bộ môn văn. Về thơ, chỉ nói đến những nhà thơ điển hình. Còn số nhà thơ khác mong được hiểu vậy mà sẽ châm chước cho.
Tiết 2
VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1915 – 1976)
Tiểu sử.
Vũ Hoàng Chương sinh ngày 5 tháng 5 năm 1915 (nhưng khai sinh
đề 1916) ở Phù Ửng, Hải Dương, trong gia đình nho giáo.
Cựu học sinh Albert Sarraut, đậu Tú tài khóa 1937-38. Vũ Hoàng Chương cùng thơi Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Thế Lữ, Xuân Diệu… ông là nhà thơ của bình cũ rượu mới. Có nhiều tứ thơ điển cố, kỹ thuật rất điêu luyện; ngay cả khi làm thơ mới. Với tình yêu, Vũ Hoàng Chương nói nhiều hơn qua thơ rất chân thành; nhưng giọng thì lại khinh bạc kiêu sa và rất chán chường.
Tác phẩm.
Tập Thơ Say xuất bản vào năm 1940, Mây 1943, Vân Muội 1944 Trương Chi, Hồng Điệp (Kịch Thơ 1944), Rừng Phong, (Phạm Văn Tươi, Sài gòn 1954)vv... Từ tập Thơ say đến tập cuối cùng, thơ ông không khác nhau mấy chút. Hoài niệm hình ảnh quá vãng, cái tôi chán chường yếm thế, ẩn dật, và đôi khi chúng ta thấy trong thơ ông lời thơ sáo, ý thơ cổ. Lẽ tất nhiên, thơ Vũ Hoàng Chương có kỹ thuật rất vàng son, điêu luyện cao độ.
Nói tóm lại, kỹ thuật thơ của ông từ năm 1954 về trước ít ai bì kịp. Cho đến năm 1945, cách mệnh kháng chiến bùng nổ, Vũ Hoàng Chương bị thức tỉnh sau cơn u mê đằng đẵng bao năm trường chỉ chán khóc gió than mây, quên lãng cái Tôi, cái Khanh, Nàng Tiên nâu để bắt đầu tạo cho mình sinh khí mới đi theo luồng gió cách mệnh thổi. Ông sáng tác bài Nhớ về Hà Nội vàng son, mặc dầu thực tâm cũng chưa muốn hòa đồng xã hội mới; chưa dám bỏ hẳn lối sống của mình; nhưng tự nghĩ rằng; nếu không theo đà tiến hóa, sẽ bị nghiền nát; nên sáng tác bài thơ trên đóng góp vào lối tự đổi mới mình. Nội dung chưa thành thật lắm, nhưng còn khá hơn bài Giờ đã điểm (Xuân Quốc Gia, 1955) ông đánh dĩ cuộc đời thơ bằng lối thơ công thức, rỗng tuếch; cốt làm sao cho đúng lập trường là được. Ấy là mong cuộc đời đổi hướng vật chất mà đời sống tinh thần mang trong mình từ khi lọt lòng âu dễ thay đâu? Tôi vẫn nhận chân giá trị thơ Vũ Hoàng Chương, đó là thơ bản thân, dù chẳng thích ứng hoàn cảnh đời sống, dù chẳng nói lên được nỗi khốn khổ đồng chủng; nhưng ít ra thơ còn nói được cái tôi chân thành, dầu cái tôi hủ hóa đi nữa! Như vậy, tôi vẫn thú hơn là đọc thơ không rung cảm nổi, như loại thơ chính trị Nhớ Về Hà Nội Vàng Son (còn khá, chấp thuận được) – chứ đến Giờ đã điểm, thì phải đào huyệt chôn tăm tiếng Vũ Hoàng Chương. Một Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, may ra còn có thể đối chọi lại với nhà thơ bình thường của chủ nghĩa lãng mạn, tôn giáo của nước ngoài. Làm sao dám so sánh với nhà thơ triết học đại tài ngoại quốc! Miễn cho tôi kể tên nhiều, như: Alexandre Blok, Maðakowsky, Essénine, Simonov, hay lãng mạn cổ điển Lermontov, Nietzsche hay Aragon, Paul Éluard, J.Prévert, T.S. Éliot, F.G. Lorca, Bernard Dort, B.Brecht vv...
Vũ Hoàng Chương trong Thơ Say và Mây làm rung động người đọc, còn nói lên rung cảm chân thành của con tim biết yêu, biết biểu hiện:
“Em ơi lửa tắt tình khô rượu!
Đời vắng em rồi say với ai”
hay
“Tóc xõa tơ vàng nệm gối nhung
Đây chiều hương ngát lá hoa dung
Sóng đôi hề ngọn đèn hư ảo
Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng”
hoặc là
“Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
(...................................................)
Bể vô tận xá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh”
Buồn kiếp nghệ sĩ khổ nhục của một thời thống trị đã qua đi, khi mà văn chương chưa nuôi sống con người, văn chương chữ nghĩa bạc như chì, đời làm nghệ thuật chưa đủ bảo đảm; làm sao nuôi vợ con? Để như có một thầy; một cô, một chó cái, dăm chồng sách nát có ra gì!
(Cao Bá Quát)
Về sau trong tập thơ Rừng Phong, bài Nguyện Cầu than kiếp bến bờ mê, tằm kéo tơ trong một nước chưa có gì biểu hiện bao dung trí thức làm nghệ thuật. Một bài thơ nhìn lên đủ cho người đời nhìn thấy nền văn hiến của thời đại quay cuồng ra sao rồi? Một câu thơ hay làm biến động được; thì đó là giá trị quá khứ của Vũ Hoàng Chương từ 1954 về trước:
“Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trông ra bến Hoặc bờ Mê
Ngàn thu nửa chớp bốn bề một phương
Ta van cát bụi trên đường
Dù dơ dù sạch đừng vương gót này
Để ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
Thơ ta chẳng viết cho đời
Không vang nhịp khóc giây cười nào đâu?
Trầm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi
Đêm nào ta trở về Ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phần đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm”
Một bạn trẻ tự nhận, độc giả yêu thơ ở Huế, ký Dạ Thảo chưa hiểu được nỗi u sầu của ông; hay nói khác đi, chưa linh cảm được, rồi ra thi nghiệp họ Vũ sẽ lâm chung chăng, sẽ làm thơ phản lại bản thân như Giờ Đã Điểm (theo lập trường phê bình văn nghệ, nếu lập trường chính trị thì Vũ là một anh thợ công thức rất nên khuyến khích và đáng khen). Ông ta cho rằng Vũ bị đào thải, phải bị đào thải, vì phản bội lịch sử diễn biến, phản cách mệnh, chỉ say, còn phản tiến hóa con người. Nhưng ông bạn chưa tìm hiểu uyên nguyên chính, cứu cánh sống của Vũ từ xưa đến nay, khép tội quá nặng nề, đối tượng so sánh đà tiến hóa của người hôm nay. Cũng chưa tai hại bằng chính Vũ phản lại Vũ, phản lại thi nghiệp bản thân. Than ôi! đó mới là điều đáng nói, vì tự nó đã đào thải rồi, cần chi đến ai khác:
"...Rừng Phong ra đời còn gì hơn bằng máu và say, thật là thi nhân phản tiến hóa. Mà lúc tranh tối tranh sáng này làm con người tiến bộ(?) để rồi xô đẩy một lớp người vào cái hố ngày mai không bờ bến thì hơn gì kẻ đứng một chỗ. Vũ Hoàng Chương chỉ là một đại biểu cho phái nghệ sĩ lừng chừng mà một số nghệ sĩ cũng đủ đại biểu cho tinh thần một số lớn. Con số đó cũng thật là đáng kể…”(trích tạp chí Đời Mới)
Không cần kết luận, chắc người yêu thơ Vũ cũng nhận chân được chân đứng thi sĩ. Nếu tự phản bội chính bản thân thì làm sao mà còn phải kết luận! (38)
Trích thơ:
1. – PHƯƠNG XA
Nhổ neo rồi, thuyền ơi! Xin mặc sóng
Xô về đỏng hay dạt tới phương đoài
Xa mặt đất, giữa vô cùng cao rộng
Lòng cô đơn, cay đắng họa dần vơi
Lũ chúng ta, lạc loài, dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh
Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ
Một đời người u uất nỗi chơ vơ
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ
Men đã ngấm, bọn ta chờ nắng tắt
Treo buồm cao cùng cất tiếng hò khoan
Gió đã nổi, nhịp giăng chiều hiu hắt
Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy cho ngoan
(Trích Thơ Say)
2. – SAY ĐI EM
Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương.
Đầu xanh lận đận, cùng xót thương, càng nhớ thương.
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo!
Hồn ngã lâu rồi nhưng chân còn dẻo,
Lòng trót nghiêng mà chân bước du dương.
Lòng nghiêng tràn hết yêu đương
Bước chân còn nhịp nghê thường lẳng lơ,
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê, hồn gửi cánh tay hờ.
Âm ba gờn gợn nhỏ,
Ánh sáng phai phai dần...
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi vai, ngả đôi thân!
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ,
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta!
Cỏ chưa khô, đầu chưa nặng, mắt chưa hoa,
Tay mềm mại, bước còn chưa chếnh choáng,
Chưa cuối xứ Mê ly chưa cùng trời phóng đãng,
Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men.
Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn,
Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt,
Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết!
Ta quá say rồi!
Sắc ngả màn trôi…
Gian phòng không đứng vững,
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi?
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa,
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy, giác quan vừa bén lửa,
Say không còn biết chi đời…
Nhưng em ơi,
Đất trời nghiêng ngửa.
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ,
Đất trời nghiêng ngửa,
Thành sầu không sụp đổ em ơi!
(Trích Thơ Say)
3.– NHỚ VỀ HÀ NỘI VÀNG SON(39)
Đoạn chấm trong bài, người viết cuốn sách này xin phép tác giả tạm bỏ.
Ôi ngày mười chín ngày oanh liệt
Sóng đổ hoa vàng khắp bốn phương
Hà Nội tiếng reo hò bất tuyệt
Vang vang bờ nọ Thái Bình Dương
Ba mươi sáu phố ngày hôm ấy
Là những dòng sông đỏ sóng cờ
Nền thắm nhụy vàng hoa vĩ đại
Năm cánh xòe trên năm cửa ô!
Xôn xao hành khúc xây đời mới
Trang khúc du dương Ngọn Quốc Kỳ
Tóc bạc má hồng của vận hội
Cùng trai nước Việt hát ra đi.
Chen tiếng hoan hô này khẩu hiệu
(….....................................................)
Muôn năm người lính già tiêu biểu
Vì giang sơn quyết bỏ gia đình
Ôi ngày mười chín ngày oanh liệt
Vạn ước mong dồn một ước mong
Ôi mùa thu ấy, mùa tin tưởng
Một tấm lòng mang vạn…tấm lòng
Lưng chừng thế kỷ thứ hai mươi
Khoảng giữa mùa thu đẹp tuyệt vời
Như thoảng mê giang tràn sóng thẳm
Hoành Sơn tân lĩnh kết hoa tươi
Ba kỳ hỡi hỡi người dân Việt
Máu võ trang cùng tiến bước lên
Cùng tiến bước mau. Thề một chết
Đồi hoa Hà Nội, sóng Long Biên
Cho hoa kia nở vàng như cũ
Cho sóng này dâng đỏ gấp xưa
(................................................)
Giữa lòng dân tộc giữa kinh kỳ
Kinh đô ngàn thu đổi cho được
Và quét hôi tanh sạch đất này
Trả hôm mười chín mùa thu trước
Về cho mười chín thu mai đây
(1947)
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Tiết 3
HUY CẬN (1919 - 2005)
Tiểu sử.
Cù Huy Cận tên thật Huy Cận. Đậu kỹ sư Canh nông, ban đầu làm
thơ
nhờ sự khuyến khích của Xuân Diệu. Rồi cả hai trở thành bạn thân. Sau Xuân Diệu đề tựa thơ cho bạn, xuất bản tập Lửa Thiêng (1940). Sinh ngày 31 -5- 1919 ở Hà Tĩnh, cùng quê Xuân Diệu. Thơ thường rải rắc đăng báo trên báo Sông Thương, Ngày Nay...
Tác phẩm và khuynh hướng.
Tập thơ đầu tay của ông là cuốn Lửa Thiêng, Xuân Diệu vào tựa, với những dòng giới thiệu rất thơ, duyên dáng, xúc tích; mà chúng tôi cho rằng chưa ai viết được thế, so với thi sĩ tiền chiến viết tựa cho nhau. Tâm tư nhà thơ yêu bản thân ít, yêu thiên nhiên nhiều, chan hòa tiếng khóc đời, được Xuân Diệu nhắc cho người đọc đó là chân giá trị có từ khi Huy Cận chào đời. 1940, Vũ Hoàng Chương xuất bản tập Thơ Say, Huy Cận mới xuất bản tập thơ đầu tay. Thơ ông khác thơ Xuân Diệu, lời thơ thanh xuân đẹp, bay bướm, không chán và chạy trốn trong tình yêu như Vũ Hoàng Chương, hoặc buồn man mác như Lưu Trọng Lư. Năm xuất bản tập thơ đầu tay mới là chàng thi sĩ đôi mươi. Rồi cho xuất bản sách khảo luận giáo dục Kinh cầu tự, thì tầm thường, giả tạo, vu vơ không tạo được ảnh hưởng. Nói về ông, chỉ có thơ. Thơ nhẹ nhàng, nhưng sầu chan chứa như Điệu buồn. Ngày kháng chiến, Huy Cận chuyển mình theo đà tiến hóa xã hội. Thơ mang nhiều hình ảnh sống vào thơ linh hoạt. Tinh thần đấu tranh biểu hiện rõ rệt, không vì thế mà mất thực thể giá trị nghệ thuật. Kỹ thuật thơ Huy Cận vững vàng, thơ còn thêm một đặc tính nữa là đưa bản thân hòa vào cõi siêu hình. Tự hỏi cái chết, tự hỏi cuộc đời trôi dạt bến nào? Tính chất siêu hình trong thơ Huy Cận nhuốm mầu triết lý nhân sinh nhiều hơn là thơ siêu hình Hàn Măïc Tử khảo nghiệm hồn sống ra sao, vì chứng bệnh hủi của Hàn tạo thành.
Phê bình.
Huy Cận là nhà thơ có nhiều khám phá mới trong tứ thơ. Ông tránh được tình cảm tầm thường, đứng trên mức độ đó để nhìn biến chuyển xã hội quay cuồng. Đem hình ảnh thiên nhiên vào thơ, lời rất đẹp, cũng như khám phá đời sống nội tâm dòng đời thật xúc tích. Huy Cận có địa vị chắc chắc trong nền thi nghệ Việt Nam tiền chiến. Nhận định về giá trị ông, nhà phê bình văn học đồng thới với ông, Vũ Ngọc Phan dành một trang lịch lãm:
“...Đọc quyển Kinh cầu tự, người ta nhận thấy rằng làm được thơ chưa phải là đã biết viết văn và nhất là đã biết suy xét. Thơ ở ngoài các phương pháp hành văn và ở ngoài luân lý, còn muốn viết được văn, kẻ làm thơ còn phải có học thức, hơn nữa phải còn dày công nghiền ngẫm và dày công tập luyện mới được. Huy Cận đã quên điều quan hệ ấy và ông không nhớ rằng hầu hết các văn sĩ có danh trong thế giới đều làm thơ cả. Sở dĩ về sau họ bỏ thơ là vì về thơ phải cần có khiếu…”
Huy Cận và Xuân Diệu cùng nổi tiếng về thơ và cũng viết văn. Xuân Diệu viết Phấn thông vàng; còn Huy Cận viết biên khảo Kinh cầu tự. Nói đến Huy Cận hay Xuân Diệu; chẳng mấy ai biết họ viết văn mà chỉ nhớ họ là nhà thơ nổi tiếng mà thôi. Riêng Huy Cận, ông là bậc thầy lối thơ lục bát, gieo vận sáu tám tuyệt vời.
Trích thơ:
1. NHẠC SẦU
Ai chết đó? Nhạc sầu chi lắm thế!
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường;
Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương
Sương hay chính bụi phai tàn lả tả?
Từng tiếng lệ ấy mộng sầu úa lá.
Chim vui đâu? Cây đã gẫy vài cành.
Ôi chiều buồn! Sao nắng quá mỏng manh!
Môi tái nhạt! Ai cười mà héo vậy!
Ai chết đó? Trục xoay và bánh đẩy
Xe tang đi về tận thế giới nào?
Chiều đông tàn lạnh xuống tự trời cao,
Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó
Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ
Trần gian sao? Đây thành phố đang quen
Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền
Đường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy!
Và ngựa ơi, đi nhịp đầm, chớ nhẩy
Kẻo thân đau, chưa quên nệm giường đời
Ai đi đưa xin đưa đến tận nơi
Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi
Người đã chết – Một vài ba đầu cúi
Dăm bẩy lòng thương xót đến bên mồ
Để cho hồn khi sắp xuống hư vô
Còn được thấy trên mặt người ấm áp
Hình dáng cuộc đời từ đây xa tắp
Xe đang đi xin đường chớ gập ghềnh!
Không gian ôi xin hẹp bớt mênh mông
Ảo não quá, trời buồn chiều vĩnh biệt!
Và người nữa, tiếng gió buồn thê thiết
Xin lặng dùm cho nhẹ bớt cô đơn
Hàng cờ đen là bóng quạ chập chờn
Báo tin xấu, dẫn hồn người đã xế…
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!
Kèn đám ma hay tiếng khóc đau thương
Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương
Tiếng nức nở gởi gió đường quạnh quẽ
Sầu chi lắm trời ơi! Chiều tận thế!
(Trích Lửa Thiêng)
2. TÌNH TỰ
Sáng hôm nay hồn em như tủ áo,
Ý trong veo là lượt xếp từng đôi.
Áo đẹp chưa anh? Hoa thắm thêm đời.
Áo mơ ước anh bận dùm chiếc nhé.
Vàng vàng cùng xanh, hồng cười với tiá.
Xin mời anh chọn hình sắc yêu đương.
Hồn em đây đủ muôn ánh nghê thường.
Anh hãy bận hồn em màu sáng chói.
Anh có biết hôm nay là ngày hội,
Của lòng ta. Em trần thiết, trang hoàng.
Anh đã về; em nghe dưới chân vang
Hoa lá nở với chuông rền giọng thắm
Thuở chờ đợi, ôi thời gian rét lắm,
Đời tàn rơi cùng sao rụng canh thâu;
Và trăng lu xế nửa mái tình sầu,
Gió than thở biết mấy lời van vỉ?
Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỷ,
Gặp hôm nay nhưng đã hẹn ngàn xưa.
Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ,
Tình rộng quá, tình không biên giới nữa
Đây cửa mộng lòng em, anh hãy mở.
Màu thanh thiên rời rợi gió long lanh:
Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh.
(Trích Lửa Thiêng)
3. VẠN LÝ TÌNH
Người ở phương trời, ta ở đây,
Chờ mong phương nọ, ngóng phương nầy.
Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm,
Vạn lý sầu lên núi tiếp mây,
Nắng đã xế về bên xứ bạn;
Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy.
Trông vời bốn phía không người nhớ.
Dơi động hoàng hôn thấp bóng bay!
Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt,
Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày.
Chiếu chăn không ấm người nằm một
Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay.
(Trích Lửa Thiêng)
HUY CẬN
Tiết 4
LƯU TRỌNG LƯ (1912 – 1991)
Tiểu sử.
Lưu Trọng Lư sinh năm 1912 tại làng Cao lao hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình (Trung Phần). Con thứ hai trong gia đình ông Lư Trọng Kiên, tri phủ tỉnh đường. Sống ở Hà Nội và gầy sự nghiệp cũng ở chốn đế đô Ngàn năm văn vật. Cộng tác với nhiều tờ báo như Phụ Nữ Tân Văn, Tao Đàn…
Tác phẩm và khuynh hướng.
Tác giả tập Tiếng thu (1939), Huế 1933, Huyền không động (Nam định 1935), Chạy loạn (Hà nội 1939), Một tháng với ma Hà Nội (1940), Chiếc cáng xanh (Hà nội 1941), Từ thiên đường đến địa ngục (Phổ thông bán nguyệt san), Cô Nguyệt, Một người đàn bà đau khổ, Cô gái tân thời, Con đười ươi (tiểu thuyết)... Cũng như Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư còn viết nhiều tiểu thuyết và hơn nữa, viết văn rồi mới làm thơ in sau. Nhưng Lưu Trọng Lư, dưới mắt người đời, cũng như nhà phê bình Hoài Thanh Vũ Ngọc Phan thì ông chỉ là thi sĩ. Lưu Trọng Lư không có khiếu về văn, truyện viết tầm thường. Vũ Ngọc Phan thâu tóm văn nghiệp ông qua vài dòng đủ nhận rõ giá trị văn Lưu Trọng Lư:
“...Từ truyện ngắn Huyền không động cho đến cuốn tiểu thuyết gần đây nhất là quyển Chiếc cáng xanh Lưu Trọng Lư không thay đổi mấy tí. Với cái giọng buồn tẻ, vẫn cái lối kể chuyện tâm tình một cách lôi thôi và phẳng lặng làm cho câu chuyện không có gì thú vị. Chiếc càng xanh tuy gọi là một tập truyện ngắn nhưng thật ra là một thiên ký ức của một thanh niên nhớ tiếc một thời đã qua và có tấm lòng rất thành kính đối với bà mẹ. Đọc cuốn tiểu thuyết này người ta có cảm tưởng tác giả nhớ đâu viết đó chứ không nghĩ gì đến đâu đuôi câu chuyện và cần phải kết cấu ra sao?...”
Lưu Trọng Lư vẫn là một thi sĩ có tâm hồn và địa vị; nhắc đến ông, người ta tôn sùng là thi nhân tác giả vần thơ sầu nhè nhẹ, đôi khi da diết nhớ thương ngày đã qua; hình ảnh con nai vàng ngơ ngác đẹp vô cùng của thiên nhiên vạn vật; hoặc mỗi lần nắng hắt bên sông, làm cho ta nhớ tiếc người mẹ buổi sinh thời, hình bóng còn phảng phất mỗi lần có nắng non trưa, tiếng gà xao sác cục tác cho chúng ta nhớ hình ảnh tuyệt vời của thú yên tịnh quê hương(40) . Còn bao nhiêu hình ảnh mưa buồn, còn bao nhiêu nỗi đáng nhớ, đáng tiếc, Lưu Trọng Lư đã làm cho con người biết sống đẹp hơn, biết rung cảm mãnh liệt hơn lên. Thơ ông rất giầu tình cảm, tưởng tượng dồi dào, âm tứ đặc biệt. Thơ có bản sắc, hay đôi khi hình ảnh yêu đương được tả lại thành vần thơ tuyệt vời, như một người thiếu nữ đến tuổi mơ mộng, tựa song cửa vu vơ nhìn vào tương lai đầy ngơ ngác, sầu muộn.
Giai đoạn chuyển biến 1945, Lưu Trọng Lư cũng chuyển mình như đa số nhà thơ tiền chiến bừng tỉnh, bước vào đường mới. Bài O Tiếp tế mang lại hơi thơ mới lạ, hình tượng sống chan chứa thương yêu chồng con, và quê hương lâm nguy, đặt bổn phận suy tư giữa tình yêu cá nhân và tổ quốc. Vũ Ngọc Phan cho rằng địa vị của ông là: "...một thi sĩ đa tình và mơ mộng, ông say sưa với tất cả của người và tạo vật; tấm lòng lúc nào cũng mơ mộng, mộng với thực thổ lộ nên những lời thơ huyền ảo vô cùng..."
Trích thơ:
1. NẮNG MỚI
Mỗi lần nắng mới bắt bên song
Xao sác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không
Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
Lúc người còn sống tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới qua ngoài giậu
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi
Hình dáng mẹ tôi chửa xóa mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trông ánh trưa hè trước dậu thủa (41)
2. TIẾP TẾ(42)
Vừa học i tờ
O đi tiếp tế
Hai mươi xuân trẻ
Chẳng học chi sầu
Nhìn trước nhìn sau
O qua đồn địch
O đi một mạch
Hỏi chị hỏi em
Tầm bước êm êm
Chui qua đường trống
Lách sang bên đông
O hát o ca
Đồn địch đã xa
O cười o nói
Đường qua mấy dội
O sẽ nghỉ chân
Chẳng quản xa gần
O đi đi nữa
Bóng chiều vừa ngả
O lội sang khe
Quần ướt dầm dề
Bỗng o dừng bước
Mặt soi xuống nước
Cúc áo vội cài
Nhém lại tóc mai
Rồi o chợt thấy
Xuân gầy, ba bẩy
Da tuyết vàng khè
O sợ chồng chê
Nhưng o vẫn bước
Mình lo việc nước
Chồng chê “mược” chồng.
(1945)
LƯU TRỌNG LƯ
Tiết 5
HÀN MẶC TỬ
Tiểu sử.
Tên thật Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22-09-1912 ở Đồng Hới.
Thuở nhỏ học trường Quảng Ngãi, đã thích văn thơ, bắt đầu là thơ Đường luật. Năm 18 tuổi, ký bút hiệu Phong Trần. Những bài thơ đầu tiên đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn (Sàigòn). Năm 1934, 1935 đổi bút hiệu Lê Thanh vào làm báo ở Sàigòn. Rồi chủ trương tờ Công Luận văn chương và viết cho các báo Trong Khuê Phòng và Tân Thời. Chính thời gian này, ông ký bút hiệu Hàn Mặc Tử. Cuộc sống trải qua nhiều nghề: thư ký nhà buôn, làm báo, và cuộc sống thì nghèo nàn như đa số thiên tài có danh trên thế giới đều khổ như con vật lúc sinh thời. Có những Tết, không có tiền trả tiền nhà, trả nợ vặt, trả thợ giặt giũ quần áo và, nhà chủ đuổi nhà. Đêm ba mươi Tết, về nhà gõ cửa với hai bàn tay trắng, đầu không mũ, mẹ là bà Nguyễn Thị Duy hỏi con, hành lý để đâu? Ông trả lời: “Gửi ở Sàigòn vì chỉ ăn Tết ở nhà mấy hôm thôi”. Qua Tết, ông vẫn ở nhà trọn năm và chẳng bao giờ thấy hành lý gửi về. Năm 1936, sau khi đi du lịch Huế, Nha Trang, ông mắc bệnh hủi. Bệnh tật sau này ảnh hưởng tới văn chương rất xúc động, bi thiết, thành khẩn, ông sáng tác Đau Thương.
Tác phẩm và khuynh hướng.
Thơ Hàn Mặc Tử trước khi mắc bệnh hủi, không mấy đặc sắc. Tác phẩm đã xuất bản Gái Quê (1936), chứng tỏ điều vừa nói ở trên. Sau mắc bệnh hủi, thất tình (với Mộng Cầm), thơ Hàn Mặc Tử não nuột, đau khổ phản ánh trong văn chương cao độ. Hơi thơ mạnh, bạo, có đà đi lên, bản sắc độc đáo. Lời thơ chau chuốt, chọn lọc từng âm tứ, từ ngữ; đôi khi châm biếm, ngạo nghễ. Tiếng thơ của đời tác giả biểu hiện thành khẩn, không dấu diếm, phủ nhận luân lý xã hội. Thi sĩ Hàn Mặc Tử mất ở Qui Hòa (Qui Nhơn) cuối năm 1940. Trước khi chết viết một bài thơ xuôi bằng tiếng Pháp: La Pureté de l’âme. Sau hai năm, Quách Tấn in tập thơ Hàn Mặc Tử (Đông Phương Sàigòn 1942) gồm những bài thơ chọn lọc của Hàn, qua các giai đoạn bệnh tật và thất tình.
Phê bình.
Phê bình Hàn Mặc Tử, Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Hàn Mặc Tử có những thi hứng rất dồi dào, nhưng thơ ông phần nhiều khúc mắc, nhạc điệu trong thơ ông hình như không phải là phần quan hệ, lời thơ ông nhiều khi rất thơ, bệnh ông làm cho ý tưởng khác thường”. Ý kiến Vũ Ngọc Phan e không mấy xác đáng, vì trong tiết phê bình Trần Thanh Mại (Nhà văn hiện đại), Vũ Ngọc Phan thừa nhận giá trị thơ Hàn chau chuốt, xúc tích như Gái Quê; thì Vũ Ngọc Phan lại viện ý khác cho thơ Hàn thô kệch. Sự kiện đãi lọc phê phán tổng quát ở hôm nay, thì thơ Hàn vô cùng tha thiết với bản thân, với đời, với đạo, phân tích giảng giải ý nghĩa nhân sinh bằng lời thơ rất thơ. Thơ ông là hình tượng vắt bằng hình nhục, tim, máu, bệnh; cả nỗi chết nhọc nhằn. Ông là thi hào của thơ triết học – lối thơ triết học này như một Paul Claudel Pháp.
Sau Vũ Ngọc Phan thừa nhận thơ Hàn hay thật sau ngày ông qua đời. Nói như Nguyễn Đình Thi trong một tiểu luận (Thơ triết học) gồm hai phần: phần hồn và kỹ thuật diễn đạt đến độ cao mới thành công, với quan niệm ấy, thì thơ Hàn Mặc Tử đạt được đúng nghĩa. Hàn Mặc Tử đã tạo cho thi nghiệp trang văn chương bất tử, quý báu, là nhà thơ đem triết học vào thơ, đem triết lý nhân sinh vào thơ rất thơ. Truy niệm Hàn Mặc Tử, Hoàng Thu Đông(46) có nhiều ý kiến xác đáng về giá trị thi hào đã qua đời:
“...Hoàn cảnh đặc biệt đời sống Hàn Mặc Tử đem lại cho thi sĩ một thi nghiệp khác thường và dành riêng trang trọng thi văn Việt Nam. Giá trị thơ Hàn Mặc Tử cũng như giá trị đạo giáo, gần gũi mà xa xôi với cuộc sống. Song sức truyền cảm mãnh liệt của thi sĩ rung động người đọc sâu xa, vì Hàn Mặc Tử đã yêu thương đau khổ với tất cả những thiết tha thành thực của con người. Tiếng nói của Hàn Mặc Tử không phải là tiếng nói của một văn nghệ sĩ của thời đại, nhưng bình diện con người, Hàn Mặc Tử là một thi sĩ mà các thế hệ sau cũng như hiện thời không quên được. Vì Hàn Mặc Tử theo đúng nghĩa chân thành của nó…”
(Cải Tạo loại mới, số 326 – 1955, Sàigòn)
Trích thơ:
1. HÃY NHẬP HỒN EM
Đừng nhắc nhở tên anh ngoài lỗ miệng
Vì gió hương nghe được rỉ thầm hoa
Lỡ mất rồi tâm sự của đôi ta
Chưa hề nói cho một ai nghe biết
Chưa hề dặn ngày mai rồi tiễn biệt
Chưa khi nào đọc đến chữ chia ly
Bỗng đêm nay, trước bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống cúi mình theo dáng liễu
Lời nguyện gẫm xanh như mầu huyền diệu
Não nề lòng viễn khách giữa lúc mơ
Trời từ bi cảm ứa sương mờ
Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá
Trăng choáng váng với hoa tàn cùng ngã
Anh đoán chừng cơn ấy em ngất đi
Khổ lòng chưa em hỡi mộng tình si
Cuồng dại quá, khiến nước mây sường sượng
Nhưng qua rồi những phút giây tơ tưởng
Anh nhìn trăng bẽn lẽn đậu ngành cao
Phải giờ này đang lúc em chiêm bao
Vì chính giờ này anh đang yêu thiệt
Em hãy nhập hồn em trong bóng nguyệt.
2. ĐÔI TA
Mà anh hay em trong tim đều rạn
Đều chôn sâu một hình ảnh người mơ
Bây giờ đây, quấn quít hiện bây giờ
Chỉ biết có đôi ta là đáng sống
Dành cho nhau ngọt ngào và đáng mộng
Cố làm lơ không biết đến thời gian
Đến bông hoa tàn tạ với trăng ngàn
Đến những tình duyên chung quanh thất vọng
Nhiều hành tinh tan đi vì lỏng
Ôi muôn năm giấc mộng đã rời chưa?
Lúc ấy, sóng triều rền rĩ chưa bưa
Cứ nhắm mắt yêu nhau như chết
Cứ sảng sốt tê mê và rũ liệt
Đừng nghe chi âm hưởng địa cầu đang
Vỡ toang ra từng mảnh cả không gian
Cả thời gian từ tạo thiên lập địa
Dẫu trộn trạo điều hòa và xí xóa
Thành hư không như tình ái giữa đôi ta.
HÀN MẶC TỬ
|