TÁC GIẢ
TÁC PHẨM





Tên thật Đỗ Mạnh Tường.

Sinh ngày 10-7-1932 tại Yên Bái
trong giấy tờ tuỳ thân 1936.

Khởi sự viết văn cuối 1952.

Truyện ngắn đầu tiên Đời học sinh ký Tương Huyền đăng trên nhật báo Tia sáng ở Hà Nội (17-11-1952), Ngô Vân, Chủ nhiệm).

Truyện dài đầu tiên in ở Sài Gòn: Tình Sơn Nữ (1954).

Tổng số trên 50 tác phẩm đủ thể loại: thơ, truyện, phê bình, khảo luận, dịch thuật.

Từ 1952, ở Hà Nội cộng tác với các nhật báo Tia sáng, Giang Sơn, tạp chí Quê hương, phóng viên các báo Thân Dân (Nguyễn Thế Truyền), Dân chủ (Vũ Ngọc Các) (Hà Nội: 1952-1954). Chủ nhiệm tuần báo Mạch Sống, Dương Hà chủ bút - báo chỉ xuất bản được một số rồi tự đình bản vào 1955 ở Sài Gòn.

Cộng tác viên, tạp chí ở Sài Gòn: Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Văn Nghệ Tập San, Văn Hoá Á Châu, Tân Dân, Tạp chí Sống (Ngô Trọng Hiếu), Sinh Lực, Đời, Nhật Báo Sống, Tuần báo Đời (Chu Tử), Trình Bầy, Tiền Tuyến, Sóng Thần (Uyên Thao), Lý Tưởng,v.v… -

Đăng truyện ngắn Les Immondices dans la banlieue trên báo Le Monde Diplomatique (Paris 12-1970)

Đăng thơ trên tạp chí Tenggara, Kuala Lumpur - Malaysia) từ 1968-1972- sau in lại thành tập: Asian Morning, Western Music (Sài Gòn 1971, tựa Gs Lloyd Fernando).





BÚT KÝ & TRUYỆN


THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 1/2

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E -mail 2/2

CHÀNG VĂN SĨ ĐẤT TỀ

ĐÊM DÀI TÌNH ÁI

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 3

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA -Chương 1 Kỳ 1

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 1 Kỳ 2

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 2

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 3

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 2/2

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 3

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 3 tiếp theo

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 4

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 4

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 5

CON CHÓ LIÊM SỈ

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 6

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 5

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 7

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 8

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 9

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 10 - KẾT





BIÊN KHẢO


LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 1

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 2

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 3

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 4

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 5

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 6

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 7

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 8

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 9

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 10

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 11





Mời bạn mở để nghe
Tình Nghệ Sĩ của cố nhạc sĩ Đoàn Chuẩn.



















THAY LỜI DẪN

Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..

Newvietart xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :

a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)

b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).

c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc, sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)

d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.." (Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).

e) Le Journal d'Extrême Orient (Saigon, 3 Décembre 1959)" Lược sử văn nghệ Việt nam-Hisotire de la littérature vietnamienne". Histoire sommaire de la littérature vietnamienne, òu l'auteur passe en revue les écrivains d'avant guerre 1930-1945. Cette oeuvre est tirée sur ronéo avec une tirage limitée. Fruit de minuitieuses recherches et d'une riche documentation donnée une vue d'ensemble des diverses époques et tendances des écrivains, des poètes du Vietnam, de leurs oeuvres, d'une littérature riche de plusieurs millénaires suivant le cours de l'Histoire. C'est une synthèse remarquablement coordonné annotée parle critique éminent qu'est ThếPhong qui l'achevée dans les derniers jours de Juin 1956

(đã in ở cuối sách "LSVNVN-Nhà văn tiền chiến 1930-1945 của ThếPhong, NXB Vàng Son Saigon 1974)...

Từ Vũ và Newvietart chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã cho phép đăng tải toàn bộ tập Lược Sử Văn Nghệ, tài liệu không thể thiếu cho những người yêu chuộng văn chương nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt cho những người muốn khách quan sưu tra sử liệu .




BÀI THỨ 11

PHẦN THỨ TƯ
CÁC NHÀ THƠ ĐIỂN HÌNH TIỀN CHIẾN

Tiết 1. – Từ Phan Khôi văn xuôi có vần đến thơ mệnh danh Thơ Mới.

Tiết 2. – VŨ HOÀNG CHƯƠNG

Tiết 3. – HUY CẬN

Tiết 4. – LƯU TRỌNG LƯ

Tiết 5. – HÀN MẶC TỬ

Tiết 6. – NGUYỄN BÍNH

Tiết 7. – THÂM TÂM VÀ T.T.KH.

Tiết 8. – TRẦN TRUNG PHƯƠNG

Tiết 9. – TRẦN HUYỀN TRÂN

Tiết 10. – Sơ lược về các nhà thơ khác:

CHẾ LAN VIÊN - NGUYỄN NHƯỢC PHÁP - VŨ ĐÌNH LIÊN - TẾ HANH - ĐOÀN VĂN CỪ - HUYỀN KIÊU -LAN SƠN - HUY THÔNG - HỒ DZẾNH - NGÂN GIANG.

Tiết 11. – Kết luận về Thơ Mới.


________________________________________________


Tiết 6

NGUYỄN BÍNH (1919 – 1966)

Tiểu sử.

Sinh năm 1919 ở Nam Định. Tên thật Nguyễn Bình Thuyết. Nguyễn Bính sẵn thiên bẩm làm thơ từ nhỏ. Sống ở miền quê, nhà nghèo, ít học, và làm thơ lục bát rất hay, truyền cảm mãnh liệt phổ biến sâu rộng nhất trong dân thị thành, cả nông thôn. Có thể nói sau Nguyễn Du, Nguyễn Bính là nhà thơ được nhiều người học thuộc thơ nhiều nhất. Ông được giải thơ khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn năm 1937.

Tác phẩm và khuynh hướng.

Thi phẩm đã xuất bản như: Lỡ bước sang ngang (1940), Mây Tần, Mười hai bến nước, Tâm hồn tôi (1940), Hương cố nhân (1941) vv... sau này Nhà xuất bản Hương Sơn tái bản một hai thi phẩm chính nhiều lần. Thơ Nguyễn Bính có bản sắc sắc độc đáo, một địa vị không nhà thơ nào có được, với lối diễn đạt bình cũ rượu mới, thể thơ rất phổ biến là thơ lục bát rất Việt Nam. Từ một ảnh hình vô cùng lãng mạn, người chị dặn em ở lại nhà, trước khi đi lấy chồng (Lỡ bước sang ngang) khiến người đọc rung cảm chân thành, ứa lệ và Nguyễn Bính có giọng thơ làm người đọc thật cảm động. Từ một kỹ thuật cao, đến cách dùng từ ngữ, âm tứ, nghĩa là tạo thành bài thơ, Nguyễn Bính có kỹ thuật riêng biệt để bài thơ cảm mãnh liệt. Thơ Nguyễn Bính còn mang cá tính châm biếm cay chua cảnh nghèo kiếp tơ tằm:

“Hôm qua còn sót hai đồng bạc

Hai đứa bàn nhau uống rượu say”

hoặc mai mỉa cô gái vội quên tình nghĩa, tham tiền, quên lãng tình nhân. Như:

“Một trăm con gái đời nay ấy

Đừng nói ân tình với thủy chung!”

và đôi khi hoài cảm dĩ vãng nên thơ:

“Hai đứa ôm nhau đánh giấc dài

Vô tình ngủ đến sáng ngày mai

Chị Nhi cứ chế làm sao ấy

Hai đứa nhìn nhau ngớ ngẩn cười.”

Tình hai kẻ lúc chưa biết gì là đời, Nguyễn Bính diễn tả Mười hai bến nước đa số bài bản nói đến phận làm con gái, với vần thơ cảm động như tuyệt bút.

Phê bình.

Thơ Nguyễn Bính không giống thơ một ai, chính thi nghiệp của ông độc đáo như đời thơ Hàn Mặc Tử, rút cuộc sống thành khẩn bản thân, diễn tả thành thơ với nghệ thuật cao và thành công rực rỡ. Không cầu kỳ kiểu Vũ Hoàng Chương, không thuần túy lãng mạn lứa đôi thanh xuân đô hôi Xuân Diệu, không khóc đời suy tư kiểu Huy Cận, không hình ảnh thiên nhiên tạo vật buồn nhẹ Lưu Trọng Lư; mà đi vào một khía cạnh tâm hồn mọi người; khi thi sĩ hòa đồng rung cảm. Nhận định giá trị thơ Nguyễn Bính có hợp thời không, một bạn yêu văn nghệ, Trọng Thư viết trong báo đặc san Hương Cúc Mới (Sông Văn, Đà Lạt, 1952) như sau:

“… Thơ Nguyễn Bính ngày nay không hợp thời nữa. Giữa lúc Tổ Quốc đang cần đến nghị lực thanh niên, còn gì tức cười cho bằng một chàng trai trẻ như măng non đầy nhựa sống, than rằng tình mình đã khép lại vì một người con gái, giữa lúc xuân sang, đem bao hy vọng lại cho tuổi hoa niên. Không, tình chúng ta phải luôn luôn mở, không phải vì một cá nhân mà là vì muôn người chung quanh ta. Song không phải thế mà chúng ta phủ nhận thơ Nguyễn Bính với những bài tình tứ nhẹ nhàng, man mác như hương trầm thong thả bay trên bàn thờ, tỏa lên cao rồi lại cuốn theo chiều gió mang cả hồn chúng ta về phía xa xôi, chốn quê hương thân mến..."

Nói thế, ông bạn nào đó tự nhận chân giá trị một bài thơ tình Nguyễn Bính tiền chiến, dầu mang trường hợp Nguyễn Bính ra phân tích, nào là giữa lúc tổ quốc lâm nguy, phải có thái độ nào với thơ Nguyễn Bính? Giá trị một tác phẩm văn chương, dù là bất tử đi nữa, cũng chưa có thể áp dụng cho một thời gian không biên giới được(43) .

Trích thơ:

MỘT CON SÔNG LẠNH

Chén sầu nghiêng giữa trường giang

Canh gà bên nớ giàng sang bên này

Khoan đàn em hãy gắng say

Một đêm, chỉ có đêm nay thôi mà

Chúng ta người bến sông xa

Giang hồ một chuyến về qua xứ này

Phiền em dăm bảy đường tay

Một con sông lạnh, vài giây tơ tằm

Rưng rưng ánh nến hoen vàng

Hơi men lắng xuống, tiếng đàn cao lên

Ô nàng chẳng phải là em

Tôi nghe vó ngựa hòa Phiên, rõ ràng

Đừng quên-quên đấy-thôi nàng

Đất Hồ xa quá nàng sang sao đành

Trời ơi Hán đế vô tình

Tôi xin đốt cả kinh thành ấy đi

Chưa say, em đã say gì?

Chúng tôi còn uống còn nghe em đàn

Rưng rưng ánh nến hoen vàng

Đôi giây nức nở muôn ngàn nhớ thương

Đôi giây như thể đôi đường

Em ơi! Hà Nội là phương hướng nào?

Đêm tàn chẳng có chiêm bao

Đêm tàn có mấy chòm sao cũng tàn

Chén sầu đổ ướt trường giang

Canh gà bên nớ giàng sang bên này

Lạy trời đừng sáng đêm nay

Đò quên cặp bến tôi say suốt đời

Chiêu Quân lên ngựa mất rồi…

(Thơ Huế)

NGUYỄN BÍNH

Tiết 7 và 8

THÂM TÂM VÀ T.T.KH.

Từ ngày báo Loa đăng bài thơ Bài thơ thứ nhất, dưới ký tên T.T.Kh; thì dư luận xôn xao về chuyện tình yêu của Thâm Tâm với T.T.KH. Rồi Hai hoa sắc ty gôn, tiếp theo sau Bài thơ cuối cùng, thì sau đó Nguyễn Bính làm Giòng dư lệ mượn trong ý vào đề bằng thơ của T.T.KH:

“Cho tôi ép nốt giòng dư lệ

Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên"

Kể lại một chuyện tình của chàng thi nhân và nàng là tác giả bài thơ kia, than khóc cuộc đời giang hồ của chàng không bến đậu. Ít năm sau nàng đi lấy chồng, nhà thơ Nguyễn Bính than khóc rằng:

"Truyện xưa hồ lãng quên rồi

Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh

Bao nhiêu oan khổ vì tình

Cớ sao giống hệt chuyện mình gặp xưa

Phải chăng, mình có nên ngờ?

Rằng người năm ngoái bây giờ là đây…”

của Nguyễn Bính thì là giọng thơ mơ hồ, hoài nghi, bán tin bán nghi. Vì mối tình ấy, nếu giống hệt, thì Nguyễn Bính với nàng vườn Thanh nào đó, chưa chắc đã là T.T.KH? Như vậy có lẽ của Nguyễn Tuấn Trình (bây giờ đã chết) với bút hiệu Thâm Tâm. Qua giọng thơ chàng thi nhân sau này, chúng tôi thấy giọng bi thiết hơn.

THÂM TÂM (1917 – 1950)

Tên thật Nguyễn Tuấn Trình. Sinh năm 1917 mất năm 1948. Nhà thơ đồng thời với Nguyễn Bính, Huyền Kiêu, Đinh Hùng, Hằng Phương… có giọng thơ chán chường, bi thiết nói về tình yêu. Khi vài bài thơ T.T.KH. đăng trên báo Loa, thì Thâm Tâm làm bài Các anh hãy uống thật say đáp lại trước Nguyễn Bính. Bài thơ ấy cũng như thơ T.T.KH. ăn khớp với nhau hơn và T.T.KH. nhắc đến người chồng đang chung sống tên NGHIÊM.

Bài thơ Thâm Tâm truyền cảm thành khẩn, lời thơ, giọng thơ bi ai thống khổ, chứng tỏ tâm hồn đau khổ thực với hồn thơ, có hình tượng đau thương bằng máu, căm hờn, giận oán, chứ không lãng mạn vu vơ như bài thơ Nguyễn Bính, mặc dầu bài thơ Nguyễn Bính cũng hay.

T.T.KH (48)

Một T.T.KH của Nguyễn Bính hay Thâm Tâm, là nàng thơ như George Sand của Chopin và Musset hay đúng hơn so với thí dụ giữa nàng Nodier của Arvers (Pháp) đầu thế kỷ 19, mà chúng tôi có thể cho rằng đó là bài thơ tình hay bậc nhất thế kỷ của những nhà thơ ngẫu nhiên. Nói như tiếng Pháp, écrivain occasionnel. Có nhiều giả thuyết nghi vấn bàn về văn chương T.T.KH, nhưng thiết tưởng rằng cũng không cần biết chi tiết là ai? Mà chỉ ít bài thơ ấy của T.T.KH, là bài thơ bất hủ, lãng mạn đau thương (romantisme tourmenté) thành khẩn làm nhiều người rung cảm theo. Còn là điển hình tư tưởng lớp thanh xuân hồi ấy ưa chuộng, bởi vì lý tưởng chung khi ấy chỉ biết đau khổ trong yêu đương làm lý do chính để sống. Hồi ấy, có thể gọi thời hòa bình, thực dân Pháp thống trị, thanh niên thiếu nữ; nếu người không làm cách mệnh, chính trị; thì chỉ còn biết thỏa mãn cuộc đời bằng vần thơ yêu đương rào rạt mà thôi.

Hoài Thanh có nhắc đến T.T.KH. trong Thi Nhân Việt Nam, chúng tôi nhấn mạnh thêm T.T.KH là thi sĩ có tài ngang ngửa Xuân Diệu thời ấy. Lối thơ lãng mạn đau thương lại thống thiết hơn. Trích hai bài thơ T.T.KH. và một bài Thâm Tâm để có tài liệu về chuyện tình và thơ tình hay tiền chiến.

Trích thơ:

1. HAI SẮC HOA TY GÔN

Mỗi mùa thu trước mỗi hoàng hôn

Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn

Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc

Tôi chờ người đến với yêu đương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng

Giải đường xa vút những chiều phong

Và phương trời thẳm mờ sương cát

Tay vít giây hoa trắng cạnh lòng

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi

Thở dài trong lúc thấy tôi vui

Bảo rằng hoa ráng như tim vỡ

Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi

Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì?

Cánh hoa tan tác của sinh ly

Cho nên cười với mầu trong trắng

Là chút lòng trong chẳng biến suy

Đâu biết một lần đi lỡ làng

Dưới trời đau khổ chết yêu đương

Người xa xăm quá! Tôi buồn lắm

Trong một ngày vui pháo nhuộm đường

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi

Một mùa thu trước rất xa xôi

Đến nay tôi hiểu thì tôi đã

Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời

Ái ân lạt lẽo của chồng tôi

Mà từng thu chết từng thu chết

Vẫn giấu trong tim một bóng người

Từ đấy thu rồi thu lại thu

Lòng tôi giá lạnh đến bao giờ?

Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ

Người ấy cho nên vẫn hững hờ

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ

Chiều thu hoa rụng lại chiều thu

Gió về lạnh lẽo cùng mây trắng

Người ấy bên sông đứng ngắm đò

Nếu biết rằng tôi đã có chồng

Trời ơi, người ấy có buồn không?

Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ

Tựa trái tim phai, tựa má hồng.

2. BÀI THƠ CUỐI CÙNG

Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ

Một mùa thu cũ một lần đau

Ba năm ví biết anh còn nhớ

Em đã câm lời có nói đâu?

Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly

Càng khơi càng thấy lụy từng khi

Trách ai mang cánh ty gôn ấy

Mà viết tình em được ích gì?

Chỉ có ba người được đọc riêng

Bài thơ đan áo của chồng em

Bài thơ đan áo nay rao bán

Cho khắp người đời thóc mách xem

Là giết lời nhau đấy biết không?

Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rưng

Giận anh tôi chép giòng dư lệ

Là chút dư hương điệu cuối cùng

Từ nay anh hãy bán thơ anh

Là để yên tôi lấy một mình

Những cánh hoa lòng hừ đã ghét

Thì mang mà đổi lấy hư vinh

Ngang trái đời hoa đã úa rồi

Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi

Buồng NGHIÊM thờ thẫn buồng eo hẹp

Để nhớ người không muốn nhớ lời

Tôi oán hờn anh mỗi phút giây

Tôi run sợ viết bởi rồi đây

Nếu không im được, thời tôi chết

Đêm hỡi làm sao tối thế này?

Năm lại qua năm cứ muốn yên

Mà phương trời gió chẳng làm quên

Mà người vỡ lở duyên thầm kín

Lại chính là anh, anh của em

Tôi biết làm sao được hở trời?

Giận anh không nỡ, nhớ không thôi

Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt

Sợ quá đi anh có một người .

T.T.KH

Đây bài thơ Các anh hãy uống thật say Thâm Tâm nói rõ lòng và chính bài thơ ấy cho biết KH là Khánh. Vậy tạm tin giả thuyết này, còn mấy bài thơ của Khánh đăng báo chỉ ký là T.T. KH mà Thâm Tâm cho là Thâm-Tâm-Khánh.

CÁC ANH HÃY UỐNG THẬT SAY

Các anh hãy uống thật say

Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im

Giờ hình như quá nửa đêm

Lòng đau đem lại cái tin cuối mùa

Hơi đàn buồn như trời mưa

Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi

Giờ hình như ở ngoài trời

Tiếng xe đã nghiến, đã rời rã đi.

Hồn tôi lờ mờ sương khuya

Bởi chưng tôi viết bài thơ trả lời

Vâng tôi biết có một người

Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng

Để hôm sau khóc trong lòng

Vâng, tôi vẫn biết cánh đồng thời gian

Hôm nay rụng hết lá vàng

Và tôi lỡ chuyến chiều tàn về không

Tiếng xe trong vết bụi hồng

Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ

Tiếng xe trong xác pháo xưa

Nàng đi có mấy bài thơ trở về?

Tiếng xe mở lối vu quy

Hay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời

Miệng chồng Khánh gắn trên môi

Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ

Từ ngày đàn chia đường tơ

Sao tôi không biết hững hờ nàng đan

Kéo dài một chiếc áo len

Tơ càng đứt mối nàng càng nối dây

Nàng còn gỡ mãi trên tay

Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu

Góp hai thứ tóc trên đầu

Sao còn chắp nối những câu tâm tình

Từng năm, từng đứa con non

Mỉm cười vá kín vết thương lại lành

Khánh đi còn hỏi gì anh?

Ái tình dù vỡ ái tình lại nguyên

Em về đan mối tơ duyên

Vào tà áo mới đừng tìm duyên xưa

Bao nhiêu hy vọng còn thừa

Hãy đành mà khóc những giờ vị vong

Bao nhiêu hương cánh trong lòng

Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng, hồn cha

Nhắc làm chi chuyện đôi ta

Bản năng anh đã phong ba dập vùi

Hãy vui lên các anh ơi!

Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về

Tâm hồn lạnh nhạt đêm nghe

Tiếng mưa lá chết đã xê dịch nhiều

Giờ hình như gió thổi đều

Những loài hoa máu đã gieo nốt đời

Tâm hồn nghệ sĩ nổi trôi

Xá chi cái đẹp dưới trời mỏng manh

Xá chi những chuyện tâm tình

Lòng đau đem chứa trong bình rượu cay

THÂM TÂM.

Tiết 9

TRẦN TRUNG PHƯƠNG (1913 - 1943)

Tiểu sử.

Trần Trung Phương sinh năm 1913, qua đời 1943. Ông chuyên viết thơ dành cho trẻ em có tính cách nói lên nếp sống ngây thơ đời con trẻ với mục phiêu giáo huấn. Cả đời văn nghệ, Trần Trung Phương chỉ tận tụy vào nghiên cứu giáo dục trẻ em bằng lối thơ rất thích hợp với tuổi thơ còn đi học, của tuổi thơ ấu thời.

Tác phẩm và khuynh hướng.

Tác phẩm xuất bản: Mấy vần tươi sáng (Bình Minh, Hà Nội tái bản năm 1952). Là nhà thơ của thế giới trẻ con, vì ông luôn luôn nghĩ đến thế hệ sau. Khác Nguyễn Đức Quỳnh huấn luyện mẫu người mai hậu; trái lại ông hòa đồng vào thế giới nhi đồng, để nói lên tính ngây thơ trong sạch. Nét tươi sáng chưa biết thế nào là vị danh vị lợi, vị tình. Thiêng liêng và trong sạch là những con người ấy! Bài tựa của Tam Lang thì không có gì đáng nhắc lại, duy chỉ bài tựa Khái Hưng có đoạn văn giới thiệu rất hợp thời, hợp cảnh, hợp tình; nói lên thầm ý một đời tác giả: làm thơ là nguồn sống tinh thần chính yếu phục vụ thiếu nhi.

Thơ Trần Trung Phương với bài thơ bé nhỏ của hình tượng rất dễ tìm thấy, nếu ngoảnh lại hàng chục năm về trước, từ bài thơ chép của nhau, đến đi học chậm, tranh giành, rồi phải quỳ, giận nhau vô lối, thù ghét kia tan đi, dành cho nhau tình bạn da diết thương yêu. Trần Trung Phương ghi lại bằng vần thơ rất linh động và cho chúng ta hưởng lại đôi phút tươi trẻ, nhớ lại bản thân của giòng thời gian xa xôi lắm…

Phê bình.

Mấy vần tươi sáng bình dị, hợp với tâm hồn em học sinh bé nhỏ. Từ âm tứ, từ ngữ trẻ em, ông khai triển sâu rộng đọc lên thấy được gần gũi thời thơ ấu. Đọc thơ tưởng rằng tác giả là người thu nhỏ mình lại đang dung dăng dung dẻ với các em, rồi phá lên cười ròn tan. Tiếng cười tan đi, sau phổ thành tiếng thơ ngọt ngào, trong suốt. Giá trị thơ Trần Trung Phương là như thế!

Trích thơ:

PHẢI QUỲ

Đêm qua thức mãi làm thơ

Sáng nay đi học trễ giờ khổ không?

Thành ra bài học thuộc lòng

Em vừa nhẩm được vài dòng đã thôi

Đi đường bút của em rơi

Đến giờ ám tả (45) û đành ngồi bó tay

Con Liên nó vội tâu ngay

Có người không viết- Thưa thầy- chị Chi

Trông em chẳng viết chữ gì

Béo tai, thầy giáo bắt quỳ ngoài hiên

Được rồi tao biết con Liên

Từ rày đừng có vay tiền của tao

Hôm xưa mình có một hào

Con ranh nịnh hót rằng tao yêu mày

Bây giờ tao phải quỳ đây

Liên ơi! đã mát ruột mày hay chưa?

TRẦN TRUNG PHƯƠNG

Tiết 10

TRẦN HUYỀN TRÂN (1913 -1989)

Tiểu sử.

Tên thật Trần Kim. Sinh năm 13 -9 -1913 ở Hà Nội. Trần Huyền Trân là nhà văn có tài, tác giả truyện ngắn tâm tình rất hay. Về thơ, Trần Huyền Trân có địa vị chắc chắn hơn văn, mặc dầu văn không kém thơ. Tóm lại về văn thơ, Trần Huyền Trân đều sở trường. Viết cho các báo Tiểu thuyết thứ bảy, Truyền bá, Phổ Thông bán nguyệt san…

Tác phẩm và khuynh hướng.

Tác phẩm xuất bản: Lẽ sống (Truyện ngắn, Phổ thông bán nguyệt san, 1942) và nhiều thi bản đặc sắc đăng báo Tiểu thuyết thứ bảy, và Phổ thông bán nguyệt san. Thơ Trần Huyền Trân nói lên tình cảm chân thành thế hệ ông sống, giọng thơ nhiều khi rất khinh bạc, kiêu sa như văn Nguyễn Tuân. Bài Mười năm, cũng như hầu hết các thi bản khác chỉ ca tụng tình yêu. Độc hành ca của Huyền Trân là bài thơ hay. Văn thơ lãng mạn của ông chẳng kém Xuân Diệu, và thể thơ lục bác chẳng kém Nguyễn Bính:

“Tương phùng ta để biệt ly

Biệt ly là một lòng đi qua lòng

Giờ thuyền em đã theo sông

Anh nhìn khói sóng ngỡ trông mây đèo…”

Thời kháng chiến, Huyền Trân bị chuyển dịch theo bánh xe cách mệnh, ca tụng sức vươn lên giống nòi vùng dậy tranh đấu độc lập. Bài thơ Hải Phòng 19-11-1946 là bài truyền hịch, giọng thơ căm hờn hướng dẫn tất cả giai cấp hãy đứng lên chống Pháp toan xâm lăng lần hai đất nước. Thơ khẩu khí hùng hồn, hào khí, phản ánh mảnh tình đồng hợp người dân bị thống trị. Truyện ngắn Trần Huyền Trân, như tập Lẽ sống rất linh động. Ông là nhà văn có tài. Gồm truyện Lẽ sống, Bộ áo rét nhà thơ, Tâm lý cá, Những chiều thu vắng, Lá rụng, Khoa Bát Cử, Một con cốc chết, Yêu... chứng nhận tài năng của Trần Huyền Trân, không những nhà thơ có tài; còn là nhà văn có địa vị. Khác Xuân Diệu và Lưu Trọng Lư ở điều này, thơ văn của ông đều thành công. Truyện ngắn bao hàm triết lý nhân sinh, đem cuộc đời vào truyện, suy ngẫm mong cuộc đời tươi đẹp hơn lên. Dầu chỉ là thói sống rất tầm thường người đời, dưới con mắt tác giả lại là hình tượng đáng chú ý, và đôi khi tác giả đem đời sống bản thân làm nhân vật chính trong văn chương. Như Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Thiết Can, Thạch Lam…, hầu hết truyện ngắn trong Lẽ sống là tâm tư tác giả ghi lại biến chuyển va chạm, với giọng văn căm hờn, trầm lặng; nhưng ít vui trong đời sống. Lẽ rằng cuộc đời tơ tằm có mấy khi viết lên trang văn chương sung sướng đâu?

Trần Huyền Trân là nhà thơ lớp Huyền Kiêu, Tế Hanh, Đinh Hùng, Hằng Phương; sau Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Huy Cận… song là nhà văn thơ tài năng có tâm hồn sáng tạo phong phú. Văn ông có chiều sâu, tư tưởng thâm thúy.

Nhớ thi tài Trần Huyền Trân khiến chúng tôi nhớ đến Hoài Thanh, Hoài Chân khi viết Thi Nhân Việt Nam vào năm 1940. Hoài Thanh viết đến trang chót sách phê bình thi ca trên, ông định khép cửa lại, nghĩa là dầu có là thiên tài thi ca, ông cũng không mở cửa viết tiếp. Song lại có một chữ nhưng… đó là trường hợp Trần Huyền Trân thì Hoài Thanh lại phải mở cửa viết phê bình tiếp thêm một thi nhân tài năng là Trần Huyền Trân. Chúng tôi cho trích đầy đủ nhận xét giá trị thi ca Trần Huyền Trân, qua sự phê phán của Hoài Thanh:

“…Viết đến đây tôi đã định khép cửa lại, dầu có thiên tài đến gõ cũng không mở. Thế mà lại phải mở cửa để đón một nhà thơ nữa: Trần Huyền Trân. Trần Huyền-Trân, con người có tên lạ ấy, không phải là một thiên tài. Nhưng tôi tra những văn thơ hiền lành và ít nói yêu đương.

Cũng có lần thi nhân tả tình tương tư:

"Xa nhau gió ít lạnh nhiều,

Lửa khuya tàn chậm, mưa chiều đổ nhanh"

Nhưng thường thì Huyền-Trân tìm thi hứng, hoặc trong những cảnh đời buồn bã như cảnh đời cùng của thi sĩ Tản Đà:

“Có đàn con trẻ nheo nheo,

Có dăm món nợ eo sèo bên tai.

Chừng lâu rượu chẳng về chai,

Nhện dăng giá bút một vài đường tơ.

Nghiên son lớp lớp bụi mờ,

Mọt ôn tờ lại từng tờ cổ thi.”

Hoặc trong cảnh đồng quê:

“Mặt trời say rượu tắm ven sông

Nước thẹn bâng khuâng ửng má hồng

Bầy sẻ đâu về cười khúc khích

Rủ nhau lúa chín trộm vài bông.”

Đồng quê của Huyền Trân đã mất hết vẻ quê mùa. Nó làm duyên làm dáng như một cô gái thành thị.

Huyền Trân ưa nói nhất là tình mẹ con.

Người gợi cái hình ảnh Phạm Ngũ Lão sau khi dẹp giặc Nguyên. Đêm ấy tiệc khao quân vừa tan. Ai đấy đều yên ngủ. Cho đến chiến mã cũng:

“Đuôi mừng phủi sạch bụi binh đao.”

Giữa lúc ấy Phạm Ngũ Lão một mình ngồi trong trướng, lòng băng khoăng nhớ mẹ:

“Binh thư ngừng giở, bào quên cởi

Đèn nhớ mong ai bấc lụi dần.”

Thế rồi tướng quân quất ngựa tìm về chốn:

“Nằm ăn gốc gạo lều dăm mái

Cánh liếp che sương hé đợi chờ”

Than ôi! Tướng quân về tới nơi thì mẹ già không còn nữa.

Thơ Huyền Trân không xuất sắc lắm. Nhưng sau khi đọc hoài những câu rặt anh anh em em tôi đã tìm thấy ở đây cái thú của người đi đổi gió” (45)

Dưới đây chúng tôi xin trích dẫn bài thơ của thi sĩ: Mười Năm và Hải Phòng:

Trích thơ:

1. MƯỜI NĂM

Biết nhau từ thuở dại khờ

Giờ đây bụi cát đã mờ mắt trong

Nhánh hồng em chiết bên song

Đã mười xuân rụng mười bông hoa cười

Con chim bạc má già rồi

Mỏ vàng đã nhặt hết lời thơ xanh

Còn gì nữa ở lầu gianh

Ở lòng em, ở lòng anh còn gì?

Tương phùng là để biệt ly

Biệt ly là một lòng đi qua lòng

Giờ thuyền em đã theo sông

Anh nhìn khói sóng ngỡ trông mây đèo

Mười năm mới hiểu tình yêu

Một nguồn hương nhẹ mấy chiều gió đưa?

(Trích Phổ Thông Bán Nguyệt San)

1942

2. HẢI PHÒNG

Nổ súng rồi!

Nổ súng rồi

Hải Phòng ọc máu phun ra bể

Nước mặn đồng chua thêm máu người

Còi ga rên rỉ

Xe Liên kiểm hết hơi

Miệng La-my ngọt bên tiếng súng

Bao nhiêu bơ sữa reo cười

Gió thu lồng lộng

ngó hút mù khơi

Ngoài kia

Dòng Thái bình ngoi tim bể rộng

Dòng Thái bình vọt sóng

Đang tung lưới nhà Chài

Đang vác bàn tay lưu động

Vét phù sa cầy luống ngô khoai

Dòng Thái bình gieo lên sức sống

Tiếng ngàn xưa phi ngựa thúc voi

Dòng Thái bình đánh nhau với ngư

Này đây máu vữa, thịt vôi

Sáu Kho lên xương cốt

Đóng Kè xây đập

Chật vật ngày đêm một giống nòi

Này đây xóm Lạc Viên lầm lội

Ngủ với chuột, ăn với ruồi

Cha gục xuống rồi, con bước nối

Áo hở da cơm tưới mồ hôi

Cánh tay lao động rên đêm tối

(…..............................................)(46)

TRẦN HUYỀN TRÂN

Tiết 11

1. CHẾ LAN VIÊN (1920 – 1986)

Tên thật Nguyễn Ngọc Hoan. Sinh năm 1920 ở Bình Định. Thuở nhỏ học ở Trung học Quy Nhơn.

Tác phẩm xuất bản: Điêu Tàn, 1937, Vàng sao (văn). Viết cho các báo Tin văn, Tiểu thuyết thứ bẩy, Phụ nữ, Trong Khuê phòng, Người mới... Thơ ông hoài vong quốc, mượn hồn Chiêm Thành nói lên tâm trạng khắc khoải dân Việt bị Pháp đô hộ. Hơn nữa, ông sinh trưởng ở Bình Định, nơi ngày xưa dân tộc Chiêm, nên chịu ảnh hưởng nội tâm nhà thơ mang vờ họ Chế. Những thi bản Trên đường về, Điêu tàn, mang nhiều hình ảnh bi thương ấy! Thơ ông với nội dung và hướng đi rõ nét, kỹ thuật vững vàng.

Trích thơ:

TRÊN ĐƯỜNG VỀ

Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ

Quay về xem non nước giống dân Hời

( (46) )

Đây những Tháp gầy mòn vì mong đợi

Những đền xưa đổ nát dưới Thời gian

Nhưng sông vắng lê mình trong bóng tối

Những tượng Chàm le lói rỉ rên than

Đây, những cảnh ngàn sâu, cây lả ngọn

Muôn Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi;

Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn

Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ qui!

Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận

Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang

Máu Chàm(47) cuộn tháng ngày niềm oán hận

Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn

Đây, những cảnh Thái bình trong Chiêm quốc

Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều tươi;

Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp,

Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui,

Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng

Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh

Đây; chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng;

Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành

Đây, trong ánh ngọc lưu ly mờ ảo

Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà,

Những Chiêm nữ, mơ màng trong tiếng sáo

Cùng nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa.

­­Những cảnh ấy trên đường về ta đã gặp

Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi

Và từ đấy lòng ta buồn tràn ngập

Nỗi buồn thương nhớ tiếc giống dân Hời

(Trích Điêu Tàn)

CHẾ LAN VIÊN

2. NGUYỄN NHƯỢC PHÁP (1914- 1938)

Nguyễn Nhược Pháp là thứ nam nhà học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Sinh ngày 12-12-1914 ở Hà Nội, mất 19-12-1938.

Tác phẩm xuất bản: Ngày xưa (1935). Viết cho các báo L'Annam Nouveau, Hà Nội Báo, Tinh Hoa vv... Phảng phất dĩ vãng, ảnh hình không còn tồn tại ở hôm nay. Trong thơ ông. Nguyễn Nhược Pháp chú trọng về thơ tả cảnh thiên nhiên, chùa đền, bộc lộ tình cảm; hình ảnh phong độ một thời xưa. Thành công trong lối thơ này, Đi chơi Chùa Hương là một trong bài thơ hay của Nguyễn Nhược Pháp. Trước khi chết, ông sáng tác vở kịch nhan đề Người học vẽ.

Trích thơ:

ĐI CHÙA HƯƠNG

Hôm nay đi chùa Hương

Hoa cỏ mờ hơ sương

Cùng thầy me em dậy

Em vấn đầu soi gương.

Khăn nhỏ đuôi gà cao

Em đeo dải yếm đào;

Quần lĩnh áo the mới

Tay cầm nón quai thao.

Mẹ cười: “Thầy nó trông!

Chân đi đôi dép cong

Con tôi xinh xinh quá

Bao giờ cô lấy chồng?

Em tuy mới mười lăm

Mà đã lắm người thăm

Nhờ mối mai đưa tiếng

Khen tươi như trăng rằm.

Nhưng em chưa lấy ai

Vì thầy bảo người mai

Rằng: Em còn bé lắm

Ý đợi người tài trai.

Em cùng đi với mẹ

Mẹ em ngồi cáng tre

Thầy theo sau cưỡi ngựa

Thắt lưng dài đỏ hoe.

Thầy me em đi đò

Thuyền mấp mênh bên bờ

Em nhìn sông nước chảy

Đưa cánh buồm lô nhô.

Mơ xa lại nghĩ gần

Đời mấy kẻ tri âm?

Thuyền nan vừa lẹ bước

Em thấy một văn nhân.

Người đâu thanh lạ thường!

Tướng mạo trông phi thường

Lưng cao dài, trán rộng

Hỏi ai nhìn không thương?

Chàng ngồi bên me em

Me hỏi chuyện làm quen

“Thưa thầy đi chùa ạ

Thuyền đông giời ôi chen!”

Chàng thưa vâng thuyền đông

Rồi ngắm giời mênh mông

Xa xa mờ núi biếc,

Phơn phớt áng mây hồng.

Dòng sông nước đục lờ

Ngâm nga chàng đọc thơ!

Thầy khen hay hay quá!

Em nghe rồi ngẩn ngơ

Thuyền đi, bến Đục quá

Mỗi lúc gặp người ta

Thẹn thùng em không nói

“Nam mô A di đà!”

Réo rắt suối đưa quanh

Ven bờ ngọn núi xanh

Dịp cầu xa nho nhỏ

Cảnh đẹp gần như tranh

Sau núi Oản, Gà, Xôi

Bao nhiêu là khỉ ngồi

Tới núi con voi phục

Có đủ cả đầu đuôi.

Chùa lấp sau chùm cây

(Thuyền ta đi một ngày)

Lên cửa chùa em thấy

Hơn một trăm ăn mày.

Em đi, chàng theo sau

Em không dám đi mau

Ngại chàng chê hấp tấp

Số gian nan không giàu

Thầy me đến điện thờ

Trầm hương khói tỏa mờ

Hương như là sao lạc

Lớp sóng người lô nhô.

Chen vào thật lắm công

Thầy me em lễ xong

Quay về nhà ngang bảo

“Mai mới vào chùa trong”.

Chàng hai má đỏ hồng

Kêu với thằng tiểu đồng

Mang túi thơ bầu rượu

“Mai ta vào chùa trong”.

Đêm hôm ấy em mừng!

Mùi trầm hương bay lừng

Em nằm nghe tiếng mõ

Rồi chim kêu trong rừng.

Em mơ em yêu đời

Mơ nhiều… Viết thế thôi

Kẻo mà ai xem thấy

Nhìn em đến nực cười.

Em chưa tỉnh giấc nồng

Mây núi đã pha hồng

Thầy me em sắm sửa

Vàng hương vào chùa trong.

Đường mây đá cheo leo

Hoa đỏ tím vàng leo

Vì thương me quá mệt

Săn sóc, chàng đi theo

Me bảo: “Đường còn lâu

Cứ vừa đi ta cầu

Quan Thế Âm bồ tát

Là tha hồ đi mau”

Đường vẫn thấy đi mau

Em ư? em không cần

Chàng cũng cho như thế

(Ra ta hợp tâm đầu)

Khi qua chùa Giải Oan

Trông thấy bức tường ngang

Chàng đưa tay, lẹ bút

Thảo bài thơ liên hoàn.

Tấm tắc thầy khen hay

Chữ đẹp như rồng bay

(Bài thơ này em nhớ)

Nên chả chép vào đây

Ô! Chùa trong đây rồi

Động thẳm bóng xanh ngời

Gấm thêu, trần thạch nhũ

Ngọc nhuốm hương trầm rơi

Me vui mừng hả hê

“Tặc! Con đường mà ghê!

Thầy kêu: mau lên nhé,

Chiều hôm nay ta về”

Em nghe bỗng rụng rời!

Nhìn ai luống nghẹn nhời!

Giờ vui đời có vậy

Thoảng ngày vui qua rồi!

Làn gió thổi hây hây

Em nghe tà áo bay

Em tìm hơi chàng thở

Chàng ơi, chàng có hay?

Đường dây kia lên trời

Ta bước tựa vai cười,

Yêu nhau, yêu nhau mãi

Đi, ta đi, chàng ôi!

Ngun ngút khói hương vàng

Say trong giấc mơ vàng

Em cầu xin Giời, Phật

Sao cho em lấy chàng

(Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện).

(Trích Ngày Xưa)

NGUYỄN NHƯỢC PHÁP

3. VŨ ĐÌNH LIÊN (1913- 1996)

Là bạn học Vũ Trọng Phụng ở trường Tiểu học Hàng Vôi. Sau làm công chức cao cấp. Sinh năm 1913 ở Hà Nội. Vào Trường Luật, được bổ Tham tá thương chính như Xuân Diệu. Chủ trương Revue Pédagogique, quản lý báo Tinh Hoa, đăng thơ trên các báo Loa, Phong hóa, Phụ nữ Thời đàm... Vũ đình Liên là nhà thơ sống trong giai đoạn thơ mới, nhưng là di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn (Vũ đình Liên tự cáo trạng). Hoài vọng dĩ vãng của thế hệ đã mất, Vũ Đình Liên, Nguyễn Nhược Pháp, mỗi người một đường ghi bóng cũ khác nhau; song cả hai đều nổi tiếng qua nhiều bài thơ “tiếc một thời vang bóng”.

Trích thơ:

ÔNG ĐỒ

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu giấy đỏ

Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

“Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay”

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu…

Ông đồ vẫn ngồi đấy,

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.

Năm nay hoa đào nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

(Trích Tinh Hoa)

VŨ ĐÌNH LIÊN

4. TẾ HANH (1921- )

Tên thật Trần Tế Hanh. Sinh ngày 15-5-1921 ở Quảng Ngãi. Được giải thưởng thơ khuyến khích Tự Lực văn đoàn năm 1939, qua tập Nghẹn Ngào. Thơ Tế Hanh gần gũi với cuộc sống dân quê hương. Tác giả Làng chài lưới nói lên tâm trạng khắc khoải, đơn côi bản thân. Hoặc các bài thơ khác như Vu vơ, Ao ước…

Trích thơ:

VU VƠ

Những ngày nghỉ học tôi hay tới

Đón chuyến tàu đi, đến những ga

Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt

Lòng buồn đau xót nỗi chia xa.

Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu

Ngàn đời không đủ sức đi mau:

Có chi vướng víu trong hơi máy,

Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau.

Bánh nghiến lăn lăn quá nặng nề;

Khói phì như nghẹn nỗi đau tê,

Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ:

Lòng của người đi réo kẻ về.

Kẻ về không nói bước vương vương…

Thương nhớ lan xa mấy dặm trường

Lẽo đẽo tôi về theo bước họ

Tâm hồn ngớ ngẩn nhớ muôn phương.

(Trích Nghẹn Ngào)

TRẦN TẾ HANH

5. ĐOÀN VĂN CỪ (1913 - 2004)

Đoàn Văn Cừ là nhà thơ tìm kiếm của Hoài Thanh. Phê bình gia Hoài Thanh nhiều lần tìm kiếm, song không biết tiểu sử nhà thơ ấy. Thơ ông đăng rải rác trên các báo Ngày Nay như Đám hội, Đám cưới Mùa xuân, Trăng hè, Đi chợ Tết... Đi Chợ Tết là bài thơ điển hình trong thơ hay của thi sĩ, cùng đứng trong tâm trạng lớp người nhớ tiếc dĩ vãng của thế hệ đã mất. (Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, Đoàn Văn Cừ). Hai nhà thơ trên đã thành công với Đi Chùa Hương, Ông Đồ; thì Chợ Tết trong ý nghĩa này với Đoàn Văn Cừ.

Trích thơ:

CHỢ TẾT

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi

Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh

Trên con đường viền trắng mép đồi xanh

Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.

Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;

Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon

Vài cụ già chống gậy bước lom khom

Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ,

Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ

Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu

Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.

Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa

Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa

Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh

Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh

Người mua bán ra vào đầy cổng chợ

Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ

Để lắng nghe người khách nói bô bô

Anh hàng tranh kĩu kịt quảy đôi bồ

Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán

Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản

Tay mài nghiên hí hoay viết thơ xuân

Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm

Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ

Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ

Nước thời gian gội tóc trắng phau phau

Chú Hoa man đầu chít chiếc khăn nâu

Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu

Áo cụ lý bị người chen lấn kéo

Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra

Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà

Quên cả chị bên đường đang đứng gọi

Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi

Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa

Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha

Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết

Con gà sống mầu thâm như cục tiết

Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.

Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm

Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh

Trên con đường đi các đường hẻo lánh

Những người quê lũ lượt trở ra về

Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê

Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.

(Trích Ngày Nay)

ĐOÀN VĂN CỪ

6. HUYỀN KIỀU (1913-1995)

Tên thật Bùi Lão Kiều. Lớp thi sĩ đi sau Huy Cận, Xuân Diệu, cùng đợt Đinh Hùng, Hằng Phương (vợ Vũ Ngọc Phan), Phan Khắc Khoan… Thơ Huyền Kiêu u uẩn, chán nản, bi quan. Những bài thơ đã đăng báo mang tâm trạng khắc khoải, u sầu. Song ông là nhà thơ có tâm hồn nghệ thuật cao.

Trích thơ:

TÌNH SẦU

Xuân hồng, có chàng tới hỏi

Em thơ chị đẹp em đâu?

Chị tôi hoa trắng cài đầu

Đi ngắt hoa tươi ngoài nội

Hè đỏ vẫn chàng tới hỏi

Em thơ chị đẹp em đâu?

Chị tôi khăn thắm quàng đầu

Đi rũ tơ vàng bên suối

Thu biếc cũng chàng tới hỏi

Em thơ chị đẹp em đâu?

Chị tôi tóc xõa ngang đầu

Đi hát tình sầu trong núi

Đông xám lại chàng tới hỏi

Em thơ chị đẹp em đâu?

Chị tôi hoa phủ đầy đầu

Đã ngủ trong lòng mộ tối

(1943)

HUYỀN KIỀU

7. LAN SƠN (1912-1974)

Tên thật Nguyễn Đức Phòng. Sinh ngày 11-4-1912 ở Hải Phòng, chính quán Nghệ An. Tác phẩm xuất bản: Anh với Em, (thơ, 1934)...Viết giúp các báo Hải Phòng tuần báo, Phong Hóa, Ngày Nay, Tinh Hoa... Thơ Lan Sơn cùng phong độ thơ sầu Huyền Kiêu, song kĩ thuật, tâm hồn rung cảm chưa mấy chín chắn, chuyên biệt như Huyền Kiêu. Đám ma đi là bài thơ chính tác giả ưa thích, yêu cầu Hoài Thanh trích trong Thi Nhân V.N.

Trích thơ:

ĐÁM MA ĐI

Có những buổi mưa phùn thê thảm quá

Cảnh vật trùm trong tấm vải chôn người

Mảnh gỗ chèn thay kính cửa vỡ rồi

Không chắn nổi gió ngoài hơi lạnh giá

Có những buổi mưa phùn thê thảm quá!

Gội lên trên gỗ ván mỏng chôn người

Đám ma đi trong hơi sương lạnh giá

Đi trên đường và đạp xéo lòng tôi

Đám ma kéo lê thê, trong lòng tôi lạnh giá

Đem chôn đi những kỷ niệm lâu rồi

Đám ma đi trong mưa phùn thê thảm quá!

Đi hàng ngày chưa tới huyệt lòng tôi

(Trích Thơ của một đời)

LAN SƠN

8. HUY THÔNG (1916 – 1988)

Tên thật Phạm Huy Thông. Sinh năm 1918 ở Hà Nội, du học bên Pháp, đậu tiến sĩ và Cao đẳng văn chương. Tác phẩm đã xuất bản: Yêu đương (1933), Anh Nga (1934), Tiếng địch sông Ô (1935), Tần Ngọc (1937)…. Là nhà thơ cùng thời Nguyễn Nhược Pháp, theo Hoài Thanh là: "một người có những ham muốn dị thường như thế ắt phải ưa sống cái đời những vị anh hùng thời trước, hồi thế giới còn hoang vu, hồi một người trượng phu còn có thể tin mỗi hành vi của mình đều làm xao động trời đất" (trang 92, Thi Nhân Việt Nam). Ý kiến nhận đình này phản ánh đúng tâm trạng lối thơ anh hùng ca Phạm Huy Thông, con người của mégalomanie (poème épopée anh hùng ca).

Trích thơ:

GIẤC MỘNG LÊ ĐẠI HÀNH

Ta sẽ đưa binh Nam đi vùng vẫy

Khắp bốn phương, trời đất mịt mùng tăm

Bầu mênh mông chuyển động tiếng loa gầm

Tiếng gươm ca, tiếng trống hồi ngựa hí.

Binh Nam Quốc như hải triều kiêu hãnh

Sẽ cuốn theo cùng cát phủ, cùng mây nhanh,

cùng gió mạnh

Đổng man di rải rắc núi non Hời

Rồi bóng khiên rợp mát bốn phương trời

Như thác nước cao văng thân vĩ đại

Quân xông xáo tới bên bờ thiên Trúc Hải

Và co cương trên mảnh đất cuối cùng

Đắm say nhìn biển vỗ tới hư không

Trong thế giới vô biên khi cúi đầu khép nép

Binh sĩ ta sẽ cho là đất hẹp

Ngọn trường thương không đủ chỗ tung hoành

Vì muốn đủ tầm xa vút cánh băng nhanh

Muốn sức kình được tự do ngang dọc

Biển bao la với từng trời không góc

Cần mênh mông, cần bát ngát, cần xa xôi

Nhưng không gian chỉ cảm thấy mơ thôi.

HUY THÔNG

9. HỒ DZẾNH (1916 – 1991)

Tên thật Hà Triệu Anh, người Minh hương, tác giả những cuốn tiểu thuyết Chân trời cũ và Một chuyện tình mười lăm năm về trước, dưới bút hiệu Lưu Thị Hạnh. Hồ Dzếnh là thi sĩ hơn văn sĩ, lẽ thơ ông giàu nghệ cảm, nổi trội hơn văn. Thơ Hồ Dzếnh có khuynh hướng hoài vọng quốc.

Trích thơ:

TRANG SÁCH XƯA

Giở lần trang sách xưa

Nhớ thời áp bức

Giang sơn ơi! lòng người nguội đau chưa?

Mong đợi người đã thức

Cõi trần ai đêm nay ta bơ vơ

Giật mình cảm xúc

Hận muốn toát ra thơ

Tình tan vào uất ức

Hồn đau run mờ tưởng bóng cờ

Ghi dấu những ngày quốc nhục

Bừng sáng mau lên xuân

Cho vinh quang quét sạch hết phong trần

Cho non nước, sáng tươi ngày trẻ mãi

Và giang sơn, giang sơn, thiên vạn đại

Trước khi tàn ta muốn thấy ngươi vui

Hỡi vô cùng yêu dấu nước ta ơi!

Máu chảy, xuân thơm, mắt lệ người

Vú mẹ đã khô nguồn sữa cũ

Tình con còn lại bấy nhiêu thôi

Hoa xuân đất Việt nghìn thu nở

Gương cũ muôn đời rạng rỡ soi

Ước nhỏ như xưa mà nũng nịu

“Coong là coong mẹ mẹ coong ơi!”

(Trích Hoa xuân đất Việt)

HỒ DZẾNH

10. NGÂN GIANG (1916 - )

Tên thật Đỗ Thị Quế. Viết cho các báo Tri Tân, trước tiền chiến, thời hậu chiến viết cho Tia Sáng đặc san ở Hà Nội trước 1954. Tác phẩm xuất bản: Tiếng vọng sông Ngân. Là nữ thi sĩ tiền chiến nổi tiếng, với tâm hồn thi sĩ rạt rào, thi bản Xuân Chiến Địa, bài thơ sáng tác trong cao trào cách mạng, lời thơ vô cùng rung cảm, đề cao lòng yêu nước đấu tranh.

Trích thơ:

XUÂN CHIẾN ĐỊA

Gió dịu mơ hiền ánh nắng tươi

Núi sông bừng nở vạn hoa cười

Bãi sa trường ngát men tranh đấu

Có kẻ say nhìn chốn viễn khơi

Người đẹp phương trời xiết đợi mong

Một chiều nhạc ngựa rộn ven sông

Chàng đi lo trả thù dân tộc

Đã trở về cùng những chiến công

Lời thư và áo giai nhân ấy

Giữ độ thu sang lá chớm vàng

Đây cả tấm lòng dâng chiến sĩ

Quên tình riêng nhé nhớ giang sơn

Công chúa Ngọc Hân mơ Nguyễn Huệ

Bởi say sự nghiệp khách anh hùng

Em cũng mơ người trai nước Việt

Sẽ là những bậc Nguyễn Quang Trung.

Đẹp gì chăn gối trong khi cả

Dân tộc sôi lên chí quật cường

Hãy gác tình riêng mưu nghiệp lớn

Để đong máu giặc dội biên cương

Ngày mai trọn phận người dân nước

Vó ngựa xin dừng trước mái tranh

Để ngắm ai xưa ngồi dệt lụa

Má đào còn thắm tóc đương xanh

Nếu sớm hy sinh nơi chiến địa

Chữ vàng chói lọi ánh vinh quang

Em kiêu hãnh như chồng em đã

Sống với thời gian vượt thế gian

Đêm nay vườn trước bao nhiêu lá

Đã rụng theo nhiều với gió may

Em vội vàng đan xong chiếc áo

Gửi người muôn dặm chắc vừa tay

Hẳn đã nêu cao gương chiến sĩ

Nên hoa hồng nở báo vinh quang

Lòng đầy nguyện ước đầy tin tưởng

Chép vội lời thơ gửi đến chàng

Trăng trong một mảnh soi đôi ngả

In chếch tường hoa chiếc bóng chờ

Nguyện sẽ ấm lòng khi nhạc ngựa

Rung đều dưới dáng liễu lơ thơ

Lời ai xúc động lòng anh dũng

Chiến sĩ cao nhìn thẳng núi sông

Ta quyết hứa người trai đất Việt

Sẽ là những bậc Nguyễn Quang Trung

Phấp phới cờ đào bay gió cuốn

Mây vàng, kiếm sáng lóa hào quang

Các anh, một mối thù dân tộc

Cả một mùa xuân giữa chiến trường.

(1950)

NGÂN GIANG.

Tiết 12

KẾT LUẬN VỀ THƠ MỚI

Mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, mỗi thế kỷ, hoặc có thể nửa thế kỷ thời gian không nhất định bao nhiêu lâu; người lại bắt đầu thay đổi lối ghi lại thực tại cuộc đời, rung cảm lề lối sống. Sự biến dịch ấy, mới có những thi phái này, văn phái kia, chủ nghĩa này, triết thuyết nọ. Ở Nga, thế kỷ 18 biết có bao nhiêu thi phái, nào là poésie classique et poésie de cours (thơ cổ điển và trường phái nhà trường) với: Lomonov, Soumarokov, Dimitriev, Krylov thế kỷ 19, poésie populaire (thơ dân gian) như: Nekrassov, Koltsov, Essénine... poésie pré-romantique (tiền lãng mạn) như: Delwig, Joukowsky, Pouckhine..., poésie romantique (thơ lãng mạn) như: Delvij, Lermontov... poésie pré-symboliste (thơ tiền thân phái tượng trưng) như: Tioutchev, Fet..., pré-parnassienne...(thơ tiền thân nhóm Parnasse hiện đại của S.Prudhomme, Coppée...) poésie décadente (nhóm thơ tiền thân phái tượng trưng sau này). Nhóm thơ của Goumilev, Gorodetzki, nhóm còn Futuriste (tương lai) của Maðakovski, Khlebnikov, Pasternak, Asséiev, Kirsanov..., rồi sau cách mạng Nga 1917, gọi là sau ngày Cách Mạng Tháng Mười) những nhóm nhà thơ Vô sản: Kirillov, Bezymenski, Outkine, nhóm Người Thép (Hommes d'acier) với Jarov, Lebedev... Ở Pháp chia ra theo nhiều thi phái, qua thơ lãng mạn, diễn đạt lối bẩy, tám chữ với những: Baudelaire, Hugo, Lamartine, Théophile Gauthier…. Rồi từ đầu thế kỷ hai mươi, với Paul Éluard, Louis Aragon, Jacques Prévert, ở Tây Ban Nha là F. G. Lorca ở Đức B. Brecht… Nhà thơ ở thế kỷ trước, thời lãng mạn cực thịnh như Lermonotov, Pouckhine… diễn tả lối thơ tám chữ, thơ anh hùng ca, hoặc tình yêu thuần triết, nào có khác gì ở Pháp Lamartine, Hugo…. Sau thời kỳ chuyển mình sang lề lối sống khác lại có Soupault, Picabia, Aragon, Breton… diễn tả theo lối tự do. Ở Việt Nam, từ khi Tây học xâm nhập; là lúc cáo chung hệ thống chịu ảnh hưởng văn học Tàu, người cuối cùng gần nhất còn lóe sáng như Tú Xương, rồi Tản Đà… Từ đó chuyển sang chịu ảnh hưởng Tây học mạnh mẽ với Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Phan Khôi, Đỗ Huy Nhiệm, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, Đoàn Văn Cừ, Ngân Giang, Huy Thông, Chế Lan Viên, J.Leiba, Nguyễn Đình Thư, Anh Thơ, Vân Đài, Hằng Phương, Bàng Bá Lân… đã góp nhiều công gây dựng Thơ mới. Quả thực muốn so sánh với thế giới, thì chúng ta vẫn đi sau ít nhất hằng thế kỷ. Thơ Huy Thông với loại thơ ca tụng loại người mégalomanie (anh hùng ca) và không sâu sắc bằng Lermontov. Còn Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, T. T. T. KH, Huy Cận, Huyền Kiêu, Trần Huyền Trân… của ta đâu đã địch nổi với một Pouckhine lãng mạn của giòng thơ mới của Nga đâu? Bởi lẽ, chúng ta sinh trưởng trong nước chịu ảnh hưởng Trung Hoa; lấy mốc ấy tiến theo; sau vua Tự Đức bế quan tỏa cảng, bởi lẽ cũng chỉ muốn nhìn lên và so sánh với Trung Hoa mà thôi. Thơ mới ở Việt Nam là một sự kiện văn học sử. Nó mốc cho sự giải thoát được tâm hồn con người u uẩn, bằng cách nói lên rung cảm tự do, mà thơ Đường không thể nào thỏa mãn chúng ta nữa. Dù muốn hay không, thơ Tự do về sau này, từ ngày có Nguyễn Đình Thi, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Tất Vinh, Hồng Nguyên vv... và nhà thơ không chuyên nghiệp là chiến sĩ, cán bộ cũng diễn tả tâm trạng qua Thơ tự do. Lối thơ này chịu îh hưởng nہn văn học Nga, như Simonov, như Mạakowsky, hay chịu ảnh hưởng Pháp: Soupault, Breton, Aragon, Éluard hoặc nữa, chịu ảnh hưởng Tây Ban Nha F. G. Lorca… cho đến thời hậu chiến thơ tự do vẫn tiếp tục lớn mạnh. Thơ mới đã qua rồi, một hình bóng rất đẹp tưởng niệm. Cũng như các thi sĩ thế kỷ 19 ở ngoại quốc, nhà thơ lớp sau nhìn vào họ như một thế hệ vàng son đã qua đi. Mỗi đợt sóng mới, lại một lần văn học chuyển mình theo đà diễn đạt. Và trong bất cứ đợt mới chuyển dịch nào, hình thức thơ, nói riêng xê dịch tạo thành những ngôi sao sáng. Những ngôi sao sáng trong Thơ mới Việt Nam là ai, các bạn đánh giá được ai giá trị …




CÒN TIẾP ...





© CẤM ĐĂNG TẢI LẠI NẾU KHÔNG CÓ SỰ ĐỒNG Ý CỦA TÁC GIẢ VÀ NEWVIETART .



TRANG CHÍNH TRANG THƠ ĐOẢN THIÊN TRUYỆN NGẮN ÂM NHẠC