THAY LỜI DẪN
Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..
Newvietart xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :
a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)
b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).
c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc, sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)
d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.." (Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).
BÀI THỨ 11
PHẦN THỨ TƯ
Tiết 1. – Từ Phan Khôi văn xuôi có vần đến thơ mệnh danh Thơ Mới.
Tiết 2. – VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Tiết 3. – HUY CẬN
Tiết 4. – LƯU TRỌNG LƯ
Tiết 5. – HÀN MẶC TỬ
Tiết 6. – NGUYỄN BÍNH
Tiết 7. – THÂM TÂM VÀ T.T.KH.
Tiết 8. – TRẦN TRUNG PHƯƠNG
Tiết 9. – TRẦN HUYỀN TRÂN
Tiết 10. – Sơ lược về các nhà thơ khác:
CHẾ LAN VIÊN - NGUYỄN NHƯỢC PHÁP - VŨ ĐÌNH LIÊN - TẾ HANH - ĐOÀN VĂN CỪ - HUYỀN KIÊU -LAN SƠN - HUY THÔNG - HỒ DZẾNH - NGÂN GIANG.
Tiết 11. – Kết luận về Thơ Mới.
NGUYỄN BÍNH
(1919 – 1966)
Tiểu sử.
Sinh năm 1919 ở Nam Định. Tên thật Nguyễn Bình Thuyết.
Nguyễn Bính sẵn thiên bẩm làm thơ từ nhỏ. Sống ở miền quê, nhà nghèo, ít học, và làm thơ lục bát rất hay, truyền cảm mãnh liệt phổ biến sâu rộng nhất trong dân thị thành, cả nông thôn. Có thể nói sau Nguyễn Du, Nguyễn Bính là nhà thơ được nhiều người học thuộc thơ nhiều nhất. Ông được giải thơ khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn năm 1937.
Tác phẩm và khuynh hướng.
Thi phẩm đã xuất bản như: Lỡ bước sang ngang (1940), Mây Tần, Mười hai bến nước, Tâm hồn tôi (1940), Hương cố nhân (1941) vv... sau này Nhà xuất bản Hương Sơn tái bản một hai thi phẩm chính nhiều lần. Thơ Nguyễn Bính có bản sắc sắc độc đáo, một địa vị không nhà thơ nào có được, với lối diễn đạt bình cũ rượu mới, thể thơ rất phổ biến là thơ lục bát rất Việt Nam. Từ một ảnh hình vô cùng lãng mạn, người chị dặn em ở lại nhà, trước khi đi lấy chồng (Lỡ bước sang ngang) khiến người đọc rung cảm chân thành, ứa lệ và Nguyễn Bính có giọng thơ làm người đọc thật cảm động. Từ một kỹ thuật cao, đến cách dùng từ ngữ, âm tứ, nghĩa là tạo thành bài thơ, Nguyễn Bính có kỹ thuật riêng biệt để bài thơ cảm mãnh liệt. Thơ Nguyễn Bính còn mang cá tính châm biếm cay chua cảnh nghèo kiếp tơ tằm:
“Hôm qua còn sót hai đồng bạc
Hai đứa bàn nhau uống rượu say”
hoặc mai mỉa cô gái vội quên tình nghĩa, tham tiền, quên lãng tình nhân. Như:
“Một trăm con gái đời nay ấy
Đừng nói ân tình với thủy chung!”
và đôi khi hoài cảm dĩ vãng nên thơ:
“Hai đứa ôm nhau đánh giấc dài
Vô tình ngủ đến sáng ngày mai
Chị Nhi cứ chế làm sao ấy
Hai đứa nhìn nhau ngớ ngẩn cười.”
Tình hai kẻ lúc chưa biết gì là đời, Nguyễn Bính diễn tả Mười hai bến nước đa số bài bản nói đến phận làm con gái, với vần thơ cảm động như tuyệt bút.
Phê bình.
Thơ Nguyễn Bính không giống thơ một ai, chính thi nghiệp của ông độc đáo như đời thơ Hàn Mặc Tử, rút cuộc sống thành khẩn bản thân, diễn tả thành thơ với nghệ thuật cao và thành công rực rỡ. Không cầu kỳ kiểu Vũ Hoàng Chương, không thuần túy lãng mạn lứa đôi thanh xuân đô hôi Xuân Diệu, không khóc đời suy tư kiểu Huy Cận, không hình ảnh thiên nhiên tạo vật buồn nhẹ Lưu Trọng Lư; mà đi vào một khía cạnh tâm hồn mọi người; khi thi sĩ hòa đồng rung cảm. Nhận định giá trị thơ Nguyễn Bính có hợp thời không, một bạn yêu văn nghệ, Trọng Thư viết trong báo đặc san Hương Cúc Mới (Sông Văn, Đà Lạt, 1952) như sau:
“… Thơ Nguyễn Bính ngày nay không hợp thời nữa. Giữa lúc Tổ Quốc đang cần đến nghị lực thanh niên, còn gì tức cười cho bằng một chàng trai trẻ như măng non đầy nhựa sống, than rằng tình mình đã khép lại vì một người con gái, giữa lúc xuân sang, đem bao hy vọng lại cho tuổi hoa niên. Không, tình chúng ta phải luôn luôn mở, không phải vì một cá nhân mà là vì muôn người chung quanh ta. Song không phải thế mà chúng ta phủ nhận thơ Nguyễn Bính với những bài tình tứ nhẹ nhàng, man mác như hương trầm thong thả bay trên bàn thờ, tỏa lên cao rồi lại cuốn theo chiều gió mang cả hồn chúng ta về phía xa xôi, chốn quê hương thân mến..."
Nói thế, ông bạn nào đó tự nhận chân giá trị một bài thơ tình Nguyễn Bính tiền chiến, dầu mang trường hợp Nguyễn Bính ra phân tích, nào là giữa lúc tổ quốc lâm nguy, phải có thái độ nào với thơ Nguyễn Bính? Giá trị một tác phẩm văn chương, dù là bất tử đi nữa, cũng chưa có thể áp dụng cho một thời gian không biên giới được(43) .
Trích thơ:
MỘT CON SÔNG LẠNH
Chén sầu nghiêng giữa trường giang
Canh gà bên nớ giàng sang bên này
Khoan đàn em hãy gắng say
Một đêm, chỉ có đêm nay thôi mà
Chúng ta người bến sông xa
Giang hồ một chuyến về qua xứ này
Phiền em dăm bảy đường tay
Một con sông lạnh, vài giây tơ tằm
Rưng rưng ánh nến hoen vàng
Hơi men lắng xuống, tiếng đàn cao lên
Ô nàng chẳng phải là em
Tôi nghe vó ngựa hòa Phiên, rõ ràng
Đừng quên-quên đấy-thôi nàng
Đất Hồ xa quá nàng sang sao đành
Trời ơi Hán đế vô tình
Tôi xin đốt cả kinh thành ấy đi
Chưa say, em đã say gì?
Chúng tôi còn uống còn nghe em đàn
Rưng rưng ánh nến hoen vàng
Đôi giây nức nở muôn ngàn nhớ thương
Đôi giây như thể đôi đường
Em ơi! Hà Nội là phương hướng nào?
Đêm tàn chẳng có chiêm bao
Đêm tàn có mấy chòm sao cũng tàn
Chén sầu đổ ướt trường giang
Canh gà bên nớ giàng sang bên này
Lạy trời đừng sáng đêm nay
Đò quên cặp bến tôi say suốt đời
Chiêu Quân lên ngựa mất rồi…
(Thơ Huế)
NGUYỄN BÍNH
Tiết 7 và 8
THÂM TÂM VÀ T.T.KH.
Từ ngày báo Loa đăng bài thơ Bài thơ thứ nhất, dưới ký tên T.T.Kh; thì dư luận xôn xao về chuyện tình yêu của Thâm Tâm với T.T.KH. Rồi Hai hoa sắc ty gôn, tiếp theo sau Bài thơ cuối cùng, thì sau đó Nguyễn Bính làm Giòng dư lệ mượn trong ý vào đề bằng thơ của T.T.KH:
“Cho tôi ép nốt giòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên"
Kể lại một chuyện tình của chàng thi nhân và nàng là tác giả bài thơ kia, than khóc cuộc đời giang hồ của chàng không bến đậu. Ít năm sau nàng đi lấy chồng, nhà thơ Nguyễn Bính than khóc rằng:
"Truyện xưa hồ lãng quên rồi
Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh
Bao nhiêu oan khổ vì tình
Cớ sao giống hệt chuyện mình gặp xưa
Phải chăng, mình có nên ngờ?
Rằng người năm ngoái bây giờ là đây…”
của Nguyễn Bính thì là giọng thơ mơ hồ, hoài nghi, bán tin bán nghi. Vì mối tình ấy, nếu giống hệt, thì Nguyễn Bính với nàng vườn Thanh nào đó, chưa chắc đã là T.T.KH? Như vậy có lẽ của Nguyễn Tuấn Trình (bây giờ đã chết) với bút hiệu Thâm Tâm. Qua giọng thơ chàng thi nhân sau này, chúng tôi thấy giọng bi thiết hơn.
THÂM TÂM (1917 – 1950)
Tên thật Nguyễn Tuấn Trình. Sinh năm 1917 mất năm 1948.
Nhà thơ đồng thời với Nguyễn Bính, Huyền Kiêu, Đinh Hùng, Hằng Phương… có giọng thơ chán chường, bi thiết nói về tình yêu. Khi vài bài thơ T.T.KH. đăng trên báo Loa, thì Thâm Tâm làm bài Các anh hãy uống thật say đáp lại trước Nguyễn Bính. Bài thơ ấy cũng như thơ T.T.KH. ăn khớp với nhau hơn và T.T.KH. nhắc đến người chồng đang chung sống tên NGHIÊM.
Bài thơ Thâm Tâm truyền cảm thành khẩn, lời thơ, giọng thơ bi ai thống khổ, chứng tỏ tâm hồn đau khổ thực với hồn thơ, có hình tượng đau thương bằng máu, căm hờn, giận oán, chứ không lãng mạn vu vơ như bài thơ Nguyễn Bính, mặc dầu bài thơ Nguyễn Bính cũng hay.
T.T.KH (48)
Một T.T.KH của Nguyễn Bính hay Thâm Tâm, là nàng thơ như George Sand của Chopin và Musset hay đúng hơn so với thí dụ giữa nàng Nodier của Arvers (Pháp) đầu thế kỷ 19, mà chúng tôi có thể cho rằng đó là bài thơ tình hay bậc nhất thế kỷ của những nhà thơ ngẫu nhiên. Nói như tiếng Pháp, écrivain occasionnel. Có nhiều giả thuyết nghi vấn bàn về văn chương T.T.KH, nhưng thiết tưởng rằng cũng không cần biết chi tiết là ai? Mà chỉ ít bài thơ ấy của T.T.KH, là bài thơ bất hủ, lãng mạn đau thương (romantisme tourmenté) thành khẩn làm nhiều người rung cảm theo. Còn là điển hình tư tưởng lớp thanh xuân hồi ấy ưa chuộng, bởi vì lý tưởng chung khi ấy chỉ biết đau khổ trong yêu đương làm lý do chính để sống. Hồi ấy, có thể gọi thời hòa bình, thực dân Pháp thống trị, thanh niên thiếu nữ; nếu người không làm cách mệnh, chính trị; thì chỉ còn biết thỏa mãn cuộc đời bằng vần thơ yêu đương rào rạt mà thôi.
Hoài Thanh có nhắc đến T.T.KH. trong Thi Nhân Việt Nam, chúng tôi nhấn mạnh thêm T.T.KH là thi sĩ có tài ngang ngửa Xuân Diệu thời ấy. Lối thơ lãng mạn đau thương lại thống thiết hơn. Trích hai bài thơ T.T.KH. và một bài Thâm Tâm để có tài liệu về chuyện tình và thơ tình hay tiền chiến.
Trích thơ:
1. HAI SẮC HOA TY GÔN
Mỗi mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Giải đường xa vút những chiều phong
Và phương trời thẳm mờ sương cát
Tay vít giây hoa trắng cạnh lòng
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng hoa ráng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi
Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì?
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười với mầu trong trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy
Đâu biết một lần đi lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá! Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi giá lạnh đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa rụng lại chiều thu
Gió về lạnh lẽo cùng mây trắng
Người ấy bên sông đứng ngắm đò
Nếu biết rằng tôi đã có chồng
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa má hồng.
2. BÀI THƠ CUỐI CÙNG
Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ
Một mùa thu cũ một lần đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có nói đâu?
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh ty gôn ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Chỉ có ba người được đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem
Là giết lời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rưng
Giận anh tôi chép giòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Là để yên tôi lấy một mình
Những cánh hoa lòng hừ đã ghét
Thì mang mà đổi lấy hư vinh
Ngang trái đời hoa đã úa rồi
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi
Buồng NGHIÊM thờ thẫn buồng eo hẹp
Để nhớ người không muốn nhớ lời
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
Tôi run sợ viết bởi rồi đây
Nếu không im được, thời tôi chết
Đêm hỡi làm sao tối thế này?
Năm lại qua năm cứ muốn yên
Mà phương trời gió chẳng làm quên
Mà người vỡ lở duyên thầm kín
Lại chính là anh, anh của em
Tôi biết làm sao được hở trời?
Giận anh không nỡ, nhớ không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh có một người .
T.T.KH
Đây bài thơ Các anh hãy uống thật say Thâm Tâm nói rõ lòng và chính bài thơ ấy cho biết KH là Khánh. Vậy tạm tin giả thuyết này, còn mấy bài thơ của Khánh đăng báo chỉ ký là T.T. KH mà Thâm Tâm cho là Thâm-Tâm-Khánh.
CÁC ANH HÃY UỐNG THẬT SAY
Các anh hãy uống thật say
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
Giờ hình như quá nửa đêm
Lòng đau đem lại cái tin cuối mùa
Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến, đã rời rã đi.
Hồn tôi lờ mờ sương khuya
Bởi chưng tôi viết bài thơ trả lời
Vâng tôi biết có một người
Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng
Để hôm sau khóc trong lòng
Vâng, tôi vẫn biết cánh đồng thời gian
Hôm nay rụng hết lá vàng
Và tôi lỡ chuyến chiều tàn về không
Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ
Tiếng xe trong xác pháo xưa
Nàng đi có mấy bài thơ trở về?
Tiếng xe mở lối vu quy
Hay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời
Miệng chồng Khánh gắn trên môi
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối nàng càng nối dây
Nàng còn gỡ mãi trên tay
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu
Góp hai thứ tóc trên đầu
Sao còn chắp nối những câu tâm tình
Từng năm, từng đứa con non
Mỉm cười vá kín vết thương lại lành
Khánh đi còn hỏi gì anh?
Ái tình dù vỡ ái tình lại nguyên
Em về đan mối tơ duyên
Vào tà áo mới đừng tìm duyên xưa
Bao nhiêu hy vọng còn thừa
Hãy đành mà khóc những giờ vị vong
Bao nhiêu hương cánh trong lòng
Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng, hồn cha
Nhắc làm chi chuyện đôi ta
Bản năng anh đã phong ba dập vùi
Hãy vui lên các anh ơi!
Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về
Tâm hồn lạnh nhạt đêm nghe
Tiếng mưa lá chết đã xê dịch nhiều
Giờ hình như gió thổi đều
Những loài hoa máu đã gieo nốt đời
Tâm hồn nghệ sĩ nổi trôi
Xá chi cái đẹp dưới trời mỏng manh
Xá chi những chuyện tâm tình
Lòng đau đem chứa trong bình rượu cay
THÂM TÂM.
Tiết 9
TRẦN TRUNG PHƯƠNG (1913 - 1943)
Tiểu sử.
Trần Trung Phương sinh năm 1913, qua đời 1943. Ông chuyên viết thơ dành cho trẻ em có tính cách nói lên nếp sống ngây thơ đời con trẻ với mục phiêu giáo huấn. Cả đời văn nghệ, Trần Trung Phương chỉ tận tụy vào nghiên cứu giáo dục trẻ em bằng lối thơ rất thích hợp với tuổi thơ còn đi học, của tuổi thơ ấu thời.
Tác phẩm và khuynh hướng.
Tác phẩm xuất bản: Mấy vần tươi sáng (Bình Minh, Hà Nội tái bản năm 1952). Là nhà thơ của thế giới trẻ con, vì ông luôn luôn nghĩ đến thế hệ sau. Khác Nguyễn Đức Quỳnh huấn luyện mẫu người mai hậu; trái lại ông hòa đồng vào thế giới nhi đồng, để nói lên tính ngây thơ trong sạch. Nét tươi sáng chưa biết thế nào là vị danh vị lợi, vị tình. Thiêng liêng và trong sạch là những con người ấy! Bài tựa của Tam Lang thì không có gì đáng nhắc lại, duy chỉ bài tựa Khái Hưng có đoạn văn giới thiệu rất hợp thời, hợp cảnh, hợp tình; nói lên thầm ý một đời tác giả: làm thơ là nguồn sống tinh thần chính yếu phục vụ thiếu nhi.
Thơ Trần Trung Phương với bài thơ bé nhỏ của hình tượng rất dễ tìm thấy, nếu ngoảnh lại hàng chục năm về trước, từ bài thơ chép của nhau, đến đi học chậm, tranh giành, rồi phải quỳ, giận nhau vô lối, thù ghét kia tan đi, dành cho nhau tình bạn da diết thương yêu. Trần Trung Phương ghi lại bằng vần thơ rất linh động và cho chúng ta hưởng lại đôi phút tươi trẻ, nhớ lại bản thân của giòng thời gian xa xôi lắm…
Phê bình.
Mấy vần tươi sáng bình dị, hợp với tâm hồn em học sinh bé nhỏ. Từ âm tứ, từ ngữ trẻ em, ông khai triển sâu rộng đọc lên thấy được gần gũi thời thơ ấu. Đọc thơ tưởng rằng tác giả là người thu nhỏ mình lại đang dung dăng dung dẻ với các em, rồi phá lên cười ròn tan. Tiếng cười tan đi, sau phổ thành tiếng thơ ngọt ngào, trong suốt. Giá trị thơ Trần Trung Phương là như thế!
Trích thơ:
PHẢI QUỲ
Đêm qua thức mãi làm thơ
Sáng nay đi học trễ giờ khổ không?
Thành ra bài học thuộc lòng
Em vừa nhẩm được vài dòng đã thôi
Đi đường bút của em rơi
Đến giờ ám tả (45) û đành ngồi bó tay
Con Liên nó vội tâu ngay
Có người không viết- Thưa thầy- chị Chi
Trông em chẳng viết chữ gì
Béo tai, thầy giáo bắt quỳ ngoài hiên
Được rồi tao biết con Liên
Từ rày đừng có vay tiền của tao
Hôm xưa mình có một hào
Con ranh nịnh hót rằng tao yêu mày
Bây giờ tao phải quỳ đây
Liên ơi! đã mát ruột mày hay chưa?
TRẦN TRUNG PHƯƠNG
Tiết 10
TRẦN HUYỀN TRÂN
(1913 -1989)
Tiểu sử.
Tên thật Trần Kim. Sinh năm 13 -9 -1913 ở Hà Nội.
Trần Huyền Trân là nhà văn có tài, tác giả truyện ngắn tâm tình rất hay. Về thơ, Trần Huyền Trân có địa vị chắc chắn hơn văn, mặc dầu văn không kém thơ. Tóm lại về văn thơ, Trần Huyền Trân đều sở trường. Viết cho các báo Tiểu thuyết thứ bảy, Truyền bá, Phổ Thông bán nguyệt san…
Tác phẩm và khuynh hướng.
Tác phẩm xuất bản: Lẽ sống (Truyện ngắn, Phổ thông bán nguyệt san, 1942) và nhiều thi bản đặc sắc đăng báo Tiểu thuyết thứ bảy, và Phổ thông bán nguyệt san. Thơ Trần Huyền Trân nói lên tình cảm chân thành thế hệ ông sống, giọng thơ nhiều khi rất khinh bạc, kiêu sa như văn Nguyễn Tuân. Bài Mười năm, cũng như hầu hết các thi bản khác chỉ ca tụng tình yêu. Độc hành ca của Huyền Trân là bài thơ hay. Văn thơ lãng mạn của ông chẳng kém Xuân Diệu, và thể thơ lục bác chẳng kém Nguyễn Bính:
“Tương phùng ta để biệt ly
Biệt ly là một lòng đi qua lòng
Giờ thuyền em đã theo sông
Anh nhìn khói sóng ngỡ trông mây đèo…”
Thời kháng chiến, Huyền Trân bị chuyển dịch theo bánh xe cách mệnh, ca tụng sức vươn lên giống nòi vùng dậy tranh đấu độc lập. Bài thơ Hải Phòng 19-11-1946 là bài truyền hịch, giọng thơ căm hờn hướng dẫn tất cả giai cấp hãy đứng lên chống Pháp toan xâm lăng lần hai đất nước. Thơ khẩu khí hùng hồn, hào khí, phản ánh mảnh tình đồng hợp người dân bị thống trị. Truyện ngắn Trần Huyền Trân, như tập Lẽ sống rất linh động. Ông là nhà văn có tài. Gồm truyện Lẽ sống, Bộ áo rét nhà thơ, Tâm lý cá, Những chiều thu vắng, Lá rụng, Khoa Bát Cử, Một con cốc chết, Yêu... chứng nhận tài năng của Trần Huyền Trân, không những nhà thơ có tài; còn là nhà văn có địa vị. Khác Xuân Diệu và Lưu Trọng Lư ở điều này, thơ văn của ông đều thành công. Truyện ngắn bao hàm triết lý nhân sinh, đem cuộc đời vào truyện, suy ngẫm mong cuộc đời tươi đẹp hơn lên. Dầu chỉ là thói sống rất tầm thường người đời, dưới con mắt tác giả lại là hình tượng đáng chú ý, và đôi khi tác giả đem đời sống bản thân làm nhân vật chính trong văn chương. Như Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Thiết Can, Thạch Lam…, hầu hết truyện ngắn trong Lẽ sống là tâm tư tác giả ghi lại biến chuyển va chạm, với giọng văn căm hờn, trầm lặng; nhưng ít vui trong đời sống. Lẽ rằng cuộc đời tơ tằm có mấy khi viết lên trang văn chương sung sướng đâu?
Trần Huyền Trân là nhà thơ lớp Huyền Kiêu, Tế Hanh, Đinh Hùng, Hằng Phương; sau Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Huy Cận… song là nhà văn thơ tài năng có tâm hồn sáng tạo phong phú. Văn ông có chiều sâu, tư tưởng thâm thúy.
Nhớ thi tài Trần Huyền Trân khiến chúng tôi nhớ đến Hoài Thanh, Hoài Chân khi viết Thi Nhân Việt Nam vào năm 1940. Hoài Thanh viết đến trang chót sách phê bình thi ca trên, ông định khép cửa lại, nghĩa là dầu có là thiên tài thi ca, ông cũng không mở cửa viết tiếp. Song lại có một chữ nhưng… đó là trường hợp Trần Huyền Trân thì Hoài Thanh lại phải mở cửa viết phê bình tiếp thêm một thi nhân tài năng là Trần Huyền Trân. Chúng tôi cho trích đầy đủ nhận xét giá trị thi ca Trần Huyền Trân, qua sự phê phán của Hoài Thanh:
“…Viết đến đây tôi đã định khép cửa lại, dầu có thiên tài đến gõ cũng không mở. Thế mà lại phải mở cửa để đón một nhà thơ nữa: Trần Huyền Trân. Trần Huyền-Trân, con người có tên lạ ấy, không phải là một thiên tài. Nhưng tôi tra những văn thơ hiền lành và ít nói yêu đương.
Cũng có lần thi nhân tả tình tương tư:
"Xa nhau gió ít lạnh nhiều,
Lửa khuya tàn chậm, mưa chiều đổ nhanh"
Nhưng thường thì Huyền-Trân tìm thi hứng, hoặc trong những cảnh đời buồn bã như cảnh đời cùng của thi sĩ Tản Đà:
“Có đàn con trẻ nheo nheo,
Có dăm món nợ eo sèo bên tai.
Chừng lâu rượu chẳng về chai,
Nhện dăng giá bút một vài đường tơ.
Nghiên son lớp lớp bụi mờ,
Mọt ôn tờ lại từng tờ cổ thi.”
Hoặc trong cảnh đồng quê:
“Mặt trời say rượu tắm ven sông
Nước thẹn bâng khuâng ửng má hồng
Bầy sẻ đâu về cười khúc khích
Rủ nhau lúa chín trộm vài bông.”
Đồng quê của Huyền Trân đã mất hết vẻ quê mùa. Nó làm duyên làm dáng như một cô gái thành thị.
Huyền Trân ưa nói nhất là tình mẹ con.
Người gợi cái hình ảnh Phạm Ngũ Lão sau khi dẹp giặc Nguyên. Đêm ấy tiệc khao quân vừa tan. Ai đấy đều yên ngủ. Cho đến chiến mã cũng:
“Đuôi mừng phủi sạch bụi binh đao.”
Giữa lúc ấy Phạm Ngũ Lão một mình ngồi trong trướng, lòng băng khoăng nhớ mẹ:
“Binh thư ngừng giở, bào quên cởi
Đèn nhớ mong ai bấc lụi dần.”
Thế rồi tướng quân quất ngựa tìm về chốn:
“Nằm ăn gốc gạo lều dăm mái
Cánh liếp che sương hé đợi chờ”
Than ôi! Tướng quân về tới nơi thì mẹ già không còn nữa.
Thơ Huyền Trân không xuất sắc lắm. Nhưng sau khi đọc hoài những câu rặt anh anh em em tôi đã tìm thấy ở đây cái thú của người đi đổi gió” (45)
Dưới đây chúng tôi xin trích dẫn bài thơ của thi sĩ: Mười Năm và Hải Phòng:
Trích thơ:
1. MƯỜI NĂM
Biết nhau từ thuở dại khờ
Giờ đây bụi cát đã mờ mắt trong
Nhánh hồng em chiết bên song
Đã mười xuân rụng mười bông hoa cười
Con chim bạc má già rồi
Mỏ vàng đã nhặt hết lời thơ xanh
Còn gì nữa ở lầu gianh
Ở lòng em, ở lòng anh còn gì?
Tương phùng là để biệt ly
Biệt ly là một lòng đi qua lòng
Giờ thuyền em đã theo sông
Anh nhìn khói sóng ngỡ trông mây đèo
Mười năm mới hiểu tình yêu
Một nguồn hương nhẹ mấy chiều gió đưa?
(Trích Phổ Thông Bán Nguyệt San)
1942
2. HẢI PHÒNG
Nổ súng rồi!
Nổ súng rồi
Hải Phòng ọc máu phun ra bể
Nước mặn đồng chua thêm máu người
Còi ga rên rỉ
Xe Liên kiểm hết hơi
Miệng La-my ngọt bên tiếng súng
Bao nhiêu bơ sữa reo cười
Gió thu lồng lộng
ngó hút mù khơi
Ngoài kia
Dòng Thái bình ngoi tim bể rộng
Dòng Thái bình vọt sóng
Đang tung lưới nhà Chài
Đang vác bàn tay lưu động
Vét phù sa cầy luống ngô khoai
Dòng Thái bình gieo lên sức sống
Tiếng ngàn xưa phi ngựa thúc voi
Dòng Thái bình đánh nhau với ngư
Này đây máu vữa, thịt vôi
Sáu Kho lên xương cốt
Đóng Kè xây đập
Chật vật ngày đêm một giống nòi
Này đây xóm Lạc Viên lầm lội
Ngủ với chuột, ăn với ruồi
Cha gục xuống rồi, con bước nối
Áo hở da cơm tưới mồ hôi
Cánh tay lao động rên đêm tối
(…..............................................)(46)
TRẦN HUYỀN TRÂN
Tiết 11
1. CHẾ LAN VIÊN
(1920 – 1986)
Tên thật Nguyễn Ngọc Hoan. Sinh năm 1920 ở Bình Định. Thuở nhỏ học ở Trung học Quy Nhơn.
Tác phẩm xuất bản: Điêu Tàn, 1937, Vàng sao (văn). Viết cho các báo Tin văn, Tiểu thuyết thứ bẩy, Phụ nữ, Trong Khuê phòng, Người mới... Thơ ông hoài vong quốc, mượn hồn Chiêm Thành nói lên tâm trạng khắc khoải dân Việt bị Pháp đô hộ. Hơn nữa, ông sinh trưởng ở Bình Định, nơi ngày xưa dân tộc Chiêm, nên chịu ảnh hưởng nội tâm nhà thơ mang vờ họ Chế. Những thi bản Trên đường về, Điêu tàn, mang nhiều hình ảnh bi thương ấy! Thơ ông với nội dung và hướng đi rõ nét, kỹ thuật vững vàng.
Trích thơ:
TRÊN ĐƯỜNG VỀ
Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời
( (46)
)
Đây những Tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới Thời gian
Nhưng sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm le lói rỉ rên than
Đây, những cảnh ngàn sâu, cây lả ngọn
Muôn Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi;
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn
Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ qui!
Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang
Máu Chàm(47) cuộn tháng ngày niềm oán hận
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn
Đây, những cảnh Thái bình trong Chiêm quốc
Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều tươi;
Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp,
Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui,
Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây; chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng;
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành
Đây, trong ánh ngọc lưu ly mờ ảo
Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà,
Những Chiêm nữ, mơ màng trong tiếng sáo
Cùng nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa.
Những cảnh ấy trên đường về ta đã gặp
Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi
Và từ đấy lòng ta buồn tràn ngập
Nỗi buồn thương nhớ tiếc giống dân Hời
(Trích Điêu Tàn)
CHẾ LAN VIÊN
2. NGUYỄN NHƯỢC PHÁP
(1914- 1938)
Nguyễn Nhược Pháp là thứ nam nhà học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Sinh ngày 12-12-1914 ở Hà Nội, mất 19-12-1938.
Tác phẩm xuất bản: Ngày xưa (1935). Viết cho các báo L'Annam Nouveau, Hà Nội Báo, Tinh Hoa vv... Phảng phất dĩ vãng, ảnh hình không còn tồn tại ở hôm nay. Trong thơ ông. Nguyễn Nhược Pháp chú trọng về thơ tả cảnh thiên nhiên, chùa đền, bộc lộ tình cảm; hình ảnh phong độ một thời xưa. Thành công trong lối thơ này, Đi chơi Chùa Hương là một trong bài thơ hay của Nguyễn Nhược Pháp. Trước khi chết, ông sáng tác vở kịch nhan đề Người học vẽ.
Trích thơ:
ĐI CHÙA HƯƠNG
Hôm nay đi chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơ sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ đuôi gà cao
Em đeo dải yếm đào;
Quần lĩnh áo the mới
Tay cầm nón quai thao.
Mẹ cười: “Thầy nó trông!
Chân đi đôi dép cong
Con tôi xinh xinh quá
Bao giờ cô lấy chồng?
Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm
Nhờ mối mai đưa tiếng
Khen tươi như trăng rằm.
Nhưng em chưa lấy ai
Vì thầy bảo người mai
Rằng: Em còn bé lắm
Ý đợi người tài trai.
Em cùng đi với mẹ
Mẹ em ngồi cáng tre
Thầy theo sau cưỡi ngựa
Thắt lưng dài đỏ hoe.
Thầy me em đi đò
Thuyền mấp mênh bên bờ
Em nhìn sông nước chảy
Đưa cánh buồm lô nhô.
Mơ xa lại nghĩ gần
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước
Em thấy một văn nhân.
Người đâu thanh lạ thường!
Tướng mạo trông phi thường
Lưng cao dài, trán rộng
Hỏi ai nhìn không thương?
Chàng ngồi bên me em
Me hỏi chuyện làm quen
“Thưa thầy đi chùa ạ
Thuyền đông giời ôi chen!”
Chàng thưa vâng thuyền đông
Rồi ngắm giời mênh mông
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.
Dòng sông nước đục lờ
Ngâm nga chàng đọc thơ!
Thầy khen hay hay quá!
Em nghe rồi ngẩn ngơ
Thuyền đi, bến Đục quá
Mỗi lúc gặp người ta
Thẹn thùng em không nói
“Nam mô A di đà!”
Réo rắt suối đưa quanh
Ven bờ ngọn núi xanh
Dịp cầu xa nho nhỏ
Cảnh đẹp gần như tranh
Sau núi Oản, Gà, Xôi
Bao nhiêu là khỉ ngồi
Tới núi con voi phục
Có đủ cả đầu đuôi.
Chùa lấp sau chùm cây
(Thuyền ta đi một ngày)
Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày.
Em đi, chàng theo sau
Em không dám đi mau
Ngại chàng chê hấp tấp
Số gian nan không giàu
Thầy me đến điện thờ
Trầm hương khói tỏa mờ
Hương như là sao lạc
Lớp sóng người lô nhô.
Chen vào thật lắm công
Thầy me em lễ xong
Quay về nhà ngang bảo
“Mai mới vào chùa trong”.
Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu
“Mai ta vào chùa trong”.
Đêm hôm ấy em mừng!
Mùi trầm hương bay lừng
Em nằm nghe tiếng mõ
Rồi chim kêu trong rừng.
Em mơ em yêu đời
Mơ nhiều… Viết thế thôi
Kẻo mà ai xem thấy
Nhìn em đến nực cười.
Em chưa tỉnh giấc nồng
Mây núi đã pha hồng
Thầy me em sắm sửa
Vàng hương vào chùa trong.
Đường mây đá cheo leo
Hoa đỏ tím vàng leo
Vì thương me quá mệt
Săn sóc, chàng đi theo
Me bảo: “Đường còn lâu
Cứ vừa đi ta cầu
Quan Thế Âm bồ tát
Là tha hồ đi mau”
Đường vẫn thấy đi mau
Em ư? em không cần
Chàng cũng cho như thế
(Ra ta hợp tâm đầu)
Khi qua chùa Giải Oan
Trông thấy bức tường ngang
Chàng đưa tay, lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn.
Tấm tắc thầy khen hay
Chữ đẹp như rồng bay
(Bài thơ này em nhớ)
Nên chả chép vào đây
Ô! Chùa trong đây rồi
Động thẳm bóng xanh ngời
Gấm thêu, trần thạch nhũ
Ngọc nhuốm hương trầm rơi
Me vui mừng hả hê
“Tặc! Con đường mà ghê!
Thầy kêu: mau lên nhé,
Chiều hôm nay ta về”
Em nghe bỗng rụng rời!
Nhìn ai luống nghẹn nhời!
Giờ vui đời có vậy
Thoảng ngày vui qua rồi!
Làn gió thổi hây hây
Em nghe tà áo bay
Em tìm hơi chàng thở
Chàng ơi, chàng có hay?
Đường dây kia lên trời
Ta bước tựa vai cười,
Yêu nhau, yêu nhau mãi
Đi, ta đi, chàng ôi!
Ngun ngút khói hương vàng
Say trong giấc mơ vàng
Em cầu xin Giời, Phật
Sao cho em lấy chàng
(Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện).
(Trích Ngày Xưa)
NGUYỄN NHƯỢC PHÁP
3. VŨ ĐÌNH LIÊN
(1913- 1996)
Là bạn học Vũ Trọng Phụng ở trường Tiểu học Hàng Vôi.
Sau làm công chức cao cấp. Sinh năm 1913 ở Hà Nội. Vào Trường Luật, được bổ Tham tá thương chính như Xuân Diệu. Chủ trương Revue Pédagogique, quản lý báo Tinh Hoa, đăng thơ trên các báo Loa, Phong hóa, Phụ nữ Thời đàm... Vũ đình Liên là nhà thơ sống trong giai đoạn thơ mới, nhưng là di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn (Vũ đình Liên tự cáo trạng). Hoài vọng dĩ vãng của thế hệ đã mất, Vũ Đình Liên, Nguyễn Nhược Pháp, mỗi người một đường ghi bóng cũ khác nhau; song cả hai đều nổi tiếng qua nhiều bài thơ “tiếc một thời vang bóng”.
Trích thơ:
ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Trích Tinh Hoa)
VŨ ĐÌNH LIÊN
4. TẾ HANH
(1921- )
Tên thật Trần Tế Hanh. Sinh ngày 15-5-1921 ở Quảng Ngãi.
Được giải thưởng thơ khuyến khích Tự Lực văn đoàn năm 1939, qua tập Nghẹn Ngào. Thơ Tế Hanh gần gũi với cuộc sống dân quê hương. Tác giả Làng chài lưới nói lên tâm trạng khắc khoải, đơn côi bản thân. Hoặc các bài thơ khác như Vu vơ, Ao ước…
Trích thơ:
VU VƠ
Những ngày nghỉ học tôi hay tới
Đón chuyến tàu đi, đến những ga
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa.
Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau:
Có chi vướng víu trong hơi máy,
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau.
Bánh nghiến lăn lăn quá nặng nề;
Khói phì như nghẹn nỗi đau tê,
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ:
Lòng của người đi réo kẻ về.
Kẻ về không nói bước vương vương…
Thương nhớ lan xa mấy dặm trường
Lẽo đẽo tôi về theo bước họ
Tâm hồn ngớ ngẩn nhớ muôn phương.
(Trích Nghẹn Ngào)
TRẦN TẾ HANH
5. ĐOÀN VĂN CỪ
(1913 - 2004)
Đoàn Văn Cừ là nhà thơ tìm kiếm của Hoài Thanh.
Phê bình gia Hoài Thanh nhiều lần tìm kiếm, song không biết tiểu sử nhà thơ ấy. Thơ ông đăng rải rác trên các báo Ngày Nay như Đám hội, Đám cưới Mùa xuân, Trăng hè, Đi chợ Tết... Đi Chợ Tết là bài thơ điển hình trong thơ hay của thi sĩ, cùng đứng trong tâm trạng lớp người nhớ tiếc dĩ vãng của thế hệ đã mất. (Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, Đoàn Văn Cừ). Hai nhà thơ trên đã thành công với Đi Chùa Hương, Ông Đồ; thì Chợ Tết trong ý nghĩa này với Đoàn Văn Cừ.
Trích thơ:
CHỢ TẾT
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ,
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ
Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ
Để lắng nghe người khách nói bô bô
Anh hàng tranh kĩu kịt quảy đôi bồ
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán
Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản
Tay mài nghiên hí hoay viết thơ xuân
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau
Chú Hoa man đầu chít chiếc khăn nâu
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu
Áo cụ lý bị người chen lấn kéo
Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết
Con gà sống mầu thâm như cục tiết
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.
Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh
Trên con đường đi các đường hẻo lánh
Những người quê lũ lượt trở ra về
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.
(Trích Ngày Nay)
ĐOÀN VĂN CỪ
6. HUYỀN KIỀU
(1913-1995)
Tên thật Bùi Lão Kiều. Lớp thi sĩ đi sau Huy Cận, Xuân Diệu, cùng đợt Đinh Hùng, Hằng Phương (vợ Vũ Ngọc Phan), Phan Khắc Khoan… Thơ Huyền Kiêu u uẩn, chán nản, bi quan. Những bài thơ đã đăng báo mang tâm trạng khắc khoải, u sầu. Song ông là nhà thơ có tâm hồn nghệ thuật cao.
Trích thơ:
TÌNH SẦU
Xuân hồng, có chàng tới hỏi
Em thơ chị đẹp em đâu?
Chị tôi hoa trắng cài đầu
Đi ngắt hoa tươi ngoài nội
Hè đỏ vẫn chàng tới hỏi
Em thơ chị đẹp em đâu?
Chị tôi khăn thắm quàng đầu
Đi rũ tơ vàng bên suối
Thu biếc cũng chàng tới hỏi
Em thơ chị đẹp em đâu?
Chị tôi tóc xõa ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi
Đông xám lại chàng tới hỏi
Em thơ chị đẹp em đâu?
Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã ngủ trong lòng mộ tối
(1943)
HUYỀN KIỀU
7. LAN SƠN
(1912-1974)
Tên thật Nguyễn Đức Phòng. Sinh ngày 11-4-1912 ở Hải Phòng, chính quán Nghệ An.
Tác phẩm xuất bản: Anh với Em, (thơ, 1934)...Viết giúp các báo Hải Phòng tuần báo, Phong Hóa, Ngày Nay, Tinh Hoa... Thơ Lan Sơn cùng phong độ thơ sầu Huyền Kiêu, song kĩ thuật, tâm hồn rung cảm chưa mấy chín chắn, chuyên biệt như Huyền Kiêu. Đám ma đi là bài thơ chính tác giả ưa thích, yêu cầu Hoài Thanh trích trong Thi Nhân V.N.
Trích thơ:
ĐÁM MA ĐI
Có những buổi mưa phùn thê thảm quá
Cảnh vật trùm trong tấm vải chôn người
Mảnh gỗ chèn thay kính cửa vỡ rồi
Không chắn nổi gió ngoài hơi lạnh giá
Có những buổi mưa phùn thê thảm quá!
Gội lên trên gỗ ván mỏng chôn người
Đám ma đi trong hơi sương lạnh giá
Đi trên đường và đạp xéo lòng tôi
Đám ma kéo lê thê, trong lòng tôi lạnh giá
Đem chôn đi những kỷ niệm lâu rồi
Đám ma đi trong mưa phùn thê thảm quá!
Đi hàng ngày chưa tới huyệt lòng tôi
(Trích Thơ của một đời)
LAN SƠN
8. HUY THÔNG
(1916 – 1988)
Tên thật Phạm Huy Thông. Sinh năm 1918 ở Hà Nội, du học bên Pháp,
đậu tiến sĩ và Cao đẳng văn chương. Tác phẩm đã xuất bản: Yêu đương (1933), Anh Nga (1934), Tiếng địch sông Ô (1935), Tần Ngọc (1937)…. Là nhà thơ cùng thời Nguyễn Nhược Pháp, theo Hoài Thanh là: "một người có những ham muốn dị thường như thế ắt phải ưa sống cái đời những vị anh hùng thời trước, hồi thế giới còn hoang vu, hồi một người trượng phu còn có thể tin mỗi hành vi của mình đều làm xao động trời đất" (trang 92, Thi Nhân Việt Nam). Ý kiến nhận đình này phản ánh đúng tâm trạng lối thơ anh hùng ca Phạm Huy Thông, con người của mégalomanie (poème épopée anh hùng ca).
Trích thơ:
GIẤC MỘNG LÊ ĐẠI HÀNH
Ta sẽ đưa binh Nam đi vùng vẫy
Khắp bốn phương, trời đất mịt mùng tăm
Bầu mênh mông chuyển động tiếng loa gầm
Tiếng gươm ca, tiếng trống hồi ngựa hí.
Binh Nam Quốc như hải triều kiêu hãnh
Sẽ cuốn theo cùng cát phủ, cùng mây nhanh,
cùng gió mạnh
Đổng man di rải rắc núi non Hời
Rồi bóng khiên rợp mát bốn phương trời
Như thác nước cao văng thân vĩ đại
Quân xông xáo tới bên bờ thiên Trúc Hải
Và co cương trên mảnh đất cuối cùng
Đắm say nhìn biển vỗ tới hư không
Trong thế giới vô biên khi cúi đầu khép nép
Binh sĩ ta sẽ cho là đất hẹp
Ngọn trường thương không đủ chỗ tung hoành
Vì muốn đủ tầm xa vút cánh băng nhanh
Muốn sức kình được tự do ngang dọc
Biển bao la với từng trời không góc
Cần mênh mông, cần bát ngát, cần xa xôi
Nhưng không gian chỉ cảm thấy mơ thôi.
HUY THÔNG
9. HỒ DZẾNH
(1916 – 1991)
Tên thật Hà Triệu Anh, người Minh hương, tác giả những cuốn tiểu thuyết
Chân trời cũ và Một chuyện tình mười lăm năm về trước, dưới bút hiệu Lưu Thị Hạnh. Hồ Dzếnh là thi sĩ hơn văn sĩ, lẽ thơ ông giàu nghệ cảm, nổi trội hơn văn. Thơ Hồ Dzếnh có khuynh hướng hoài vọng quốc.
Trích thơ:
TRANG SÁCH XƯA
Giở lần trang sách xưa
Nhớ thời áp bức
Giang sơn ơi! lòng người nguội đau chưa?
Mong đợi người đã thức
Cõi trần ai đêm nay ta bơ vơ
Giật mình cảm xúc
Hận muốn toát ra thơ
Tình tan vào uất ức
Hồn đau run mờ tưởng bóng cờ
Ghi dấu những ngày quốc nhục
Bừng sáng mau lên xuân
Cho vinh quang quét sạch hết phong trần
Cho non nước, sáng tươi ngày trẻ mãi
Và giang sơn, giang sơn, thiên vạn đại
Trước khi tàn ta muốn thấy ngươi vui
Hỡi vô cùng yêu dấu nước ta ơi!
Máu chảy, xuân thơm, mắt lệ người
Vú mẹ đã khô nguồn sữa cũ
Tình con còn lại bấy nhiêu thôi
Hoa xuân đất Việt nghìn thu nở
Gương cũ muôn đời rạng rỡ soi
Ước nhỏ như xưa mà nũng nịu
“Coong là coong mẹ mẹ coong ơi!”
(Trích Hoa xuân đất Việt)
HỒ DZẾNH
10. NGÂN GIANG
(1916 - )
Tên thật Đỗ Thị Quế. Viết cho các báo Tri Tân, trước tiền chiến,
thời hậu chiến viết cho Tia Sáng đặc san ở Hà Nội trước 1954. Tác phẩm xuất bản: Tiếng vọng sông Ngân. Là nữ thi sĩ tiền chiến nổi tiếng, với tâm hồn thi sĩ rạt rào, thi bản Xuân Chiến Địa, bài thơ sáng tác trong cao trào cách mạng, lời thơ vô cùng rung cảm, đề cao lòng yêu nước đấu tranh.
Trích thơ:
XUÂN CHIẾN ĐỊA
Gió dịu mơ hiền ánh nắng tươi
Núi sông bừng nở vạn hoa cười
Bãi sa trường ngát men tranh đấu
Có kẻ say nhìn chốn viễn khơi
Người đẹp phương trời xiết đợi mong
Một chiều nhạc ngựa rộn ven sông
Chàng đi lo trả thù dân tộc
Đã trở về cùng những chiến công
Lời thư và áo giai nhân ấy
Giữ độ thu sang lá chớm vàng
Đây cả tấm lòng dâng chiến sĩ
Quên tình riêng nhé nhớ giang sơn
Công chúa Ngọc Hân mơ Nguyễn Huệ
Bởi say sự nghiệp khách anh hùng
Em cũng mơ người trai nước Việt
Sẽ là những bậc Nguyễn Quang Trung.
Đẹp gì chăn gối trong khi cả
Dân tộc sôi lên chí quật cường
Hãy gác tình riêng mưu nghiệp lớn
Để đong máu giặc dội biên cương
Ngày mai trọn phận người dân nước
Vó ngựa xin dừng trước mái tranh
Để ngắm ai xưa ngồi dệt lụa
Má đào còn thắm tóc đương xanh
Nếu sớm hy sinh nơi chiến địa
Chữ vàng chói lọi ánh vinh quang
Em kiêu hãnh như chồng em đã
Sống với thời gian vượt thế gian
Đêm nay vườn trước bao nhiêu lá
Đã rụng theo nhiều với gió may
Em vội vàng đan xong chiếc áo
Gửi người muôn dặm chắc vừa tay
Hẳn đã nêu cao gương chiến sĩ
Nên hoa hồng nở báo vinh quang
Lòng đầy nguyện ước đầy tin tưởng
Chép vội lời thơ gửi đến chàng
Trăng trong một mảnh soi đôi ngả
In chếch tường hoa chiếc bóng chờ
Nguyện sẽ ấm lòng khi nhạc ngựa
Rung đều dưới dáng liễu lơ thơ
Lời ai xúc động lòng anh dũng
Chiến sĩ cao nhìn thẳng núi sông
Ta quyết hứa người trai đất Việt
Sẽ là những bậc Nguyễn Quang Trung
Phấp phới cờ đào bay gió cuốn
Mây vàng, kiếm sáng lóa hào quang
Các anh, một mối thù dân tộc
Cả một mùa xuân giữa chiến trường.
(1950)
NGÂN GIANG.
Tiết 12
KẾT LUẬN VỀ THƠ MỚI
Mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, mỗi thế kỷ, hoặc có thể nửa thế kỷ thời gian không nhất định bao nhiêu lâu; người lại bắt đầu thay đổi lối ghi lại thực tại cuộc đời, rung cảm lề lối sống. Sự biến dịch ấy, mới có những thi phái này, văn phái kia, chủ nghĩa này, triết thuyết nọ. Ở Nga, thế kỷ 18 biết có bao nhiêu thi phái, nào là poésie classique et poésie de cours (thơ cổ điển và trường phái nhà trường) với: Lomonov, Soumarokov, Dimitriev, Krylov thế kỷ 19, poésie populaire (thơ dân gian) như: Nekrassov, Koltsov, Essénine... poésie pré-romantique (tiền lãng mạn) như: Delwig, Joukowsky, Pouckhine..., poésie romantique (thơ lãng mạn) như: Delvij, Lermontov... poésie pré-symboliste (thơ tiền thân phái tượng trưng) như: Tioutchev, Fet..., pré-parnassienne...(thơ tiền thân nhóm Parnasse hiện đại của S.Prudhomme, Coppée...) poésie décadente (nhóm thơ tiền thân phái tượng trưng sau này). Nhóm thơ của Goumilev, Gorodetzki, nhóm còn Futuriste (tương lai) của Maðakovski, Khlebnikov, Pasternak, Asséiev, Kirsanov..., rồi sau cách mạng Nga 1917, gọi là sau ngày Cách Mạng Tháng Mười) những nhóm nhà thơ Vô sản: Kirillov, Bezymenski, Outkine, nhóm Người Thép (Hommes d'acier) với Jarov, Lebedev... Ở Pháp chia ra theo nhiều thi phái, qua thơ lãng mạn, diễn đạt lối bẩy, tám chữ với những: Baudelaire, Hugo, Lamartine, Théophile Gauthier…. Rồi từ đầu thế kỷ hai mươi, với Paul Éluard, Louis Aragon, Jacques Prévert, ở Tây Ban Nha là F. G. Lorca ở Đức B. Brecht…
Nhà thơ ở thế kỷ trước, thời lãng mạn cực thịnh như Lermonotov, Pouckhine… diễn tả lối thơ tám chữ, thơ anh hùng ca, hoặc tình yêu thuần triết, nào có khác gì ở Pháp Lamartine, Hugo…. Sau thời kỳ chuyển mình sang lề lối sống khác lại có Soupault, Picabia, Aragon, Breton… diễn tả theo lối tự do. Ở Việt Nam, từ khi Tây học xâm nhập; là lúc cáo chung hệ thống chịu ảnh hưởng văn học Tàu, người cuối cùng gần nhất còn lóe sáng như Tú Xương, rồi Tản Đà… Từ đó chuyển sang chịu ảnh hưởng Tây học mạnh mẽ với Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Phan Khôi, Đỗ Huy Nhiệm, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, Đoàn Văn Cừ, Ngân Giang, Huy Thông, Chế Lan Viên, J.Leiba, Nguyễn Đình Thư, Anh Thơ, Vân Đài, Hằng Phương, Bàng Bá Lân… đã góp nhiều công gây dựng Thơ mới. Quả thực muốn so sánh với thế giới, thì chúng ta vẫn đi sau ít nhất hằng thế kỷ. Thơ Huy Thông với loại thơ ca tụng loại người mégalomanie (anh hùng ca) và không sâu sắc bằng Lermontov. Còn Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, T. T. T. KH, Huy Cận, Huyền Kiêu, Trần Huyền Trân… của ta đâu đã địch nổi với một Pouckhine lãng mạn của giòng thơ mới của Nga đâu? Bởi lẽ, chúng ta sinh trưởng trong nước chịu ảnh hưởng Trung Hoa; lấy mốc ấy tiến theo; sau vua Tự Đức bế quan tỏa cảng, bởi lẽ cũng chỉ muốn nhìn lên và so sánh với Trung Hoa mà thôi.
Thơ mới ở Việt Nam là một sự kiện văn học sử. Nó mốc cho sự giải thoát được tâm hồn con người u uẩn, bằng cách nói lên rung cảm tự do, mà thơ Đường không thể nào thỏa mãn chúng ta nữa. Dù muốn hay không, thơ Tự do về sau này, từ ngày có Nguyễn Đình Thi, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Tất Vinh, Hồng Nguyên vv... và nhà thơ không chuyên nghiệp là chiến sĩ, cán bộ cũng diễn tả tâm trạng qua Thơ tự do. Lối thơ này chịu îh hưởng nہn văn học Nga, như Simonov, như Mạakowsky, hay chịu ảnh hưởng Pháp: Soupault, Breton, Aragon, Éluard hoặc nữa, chịu ảnh hưởng Tây Ban Nha F. G. Lorca… cho đến thời hậu chiến thơ tự do vẫn tiếp tục lớn mạnh.
Thơ mới đã qua rồi, một hình bóng rất đẹp tưởng niệm. Cũng như các thi sĩ thế kỷ 19 ở ngoại quốc, nhà thơ lớp sau nhìn vào họ như một thế hệ vàng son đã qua đi. Mỗi đợt sóng mới, lại một lần văn học chuyển mình theo đà diễn đạt. Và trong bất cứ đợt mới chuyển dịch nào, hình thức thơ, nói riêng xê dịch tạo thành những ngôi sao sáng. Những ngôi sao sáng trong Thơ mới Việt Nam là ai, các bạn đánh giá được ai giá trị …
|