TÁC GIẢ
TÁC PHẨM





Tên thật Đỗ Mạnh Tường.

Sinh ngày 10-7-1932 tại Yên Bái
trong giấy tờ tuỳ thân 1936.

Khởi sự viết văn cuối 1952.

Truyện ngắn đầu tiên Đời học sinh ký Tương Huyền đăng trên nhật báo Tia sáng ở Hà Nội (17-11-1952), Ngô Vân, Chủ nhiệm).

Truyện dài đầu tiên in ở Sài Gòn: Tình Sơn Nữ (1954).

Tổng số trên 50 tác phẩm đủ thể loại: thơ, truyện, phê bình, khảo luận, dịch thuật.

Từ 1952, ở Hà Nội cộng tác với các nhật báo Tia sáng, Giang Sơn, tạp chí Quê hương, phóng viên các báo Thân Dân (Nguyễn Thế Truyền), Dân chủ (Vũ Ngọc Các) (Hà Nội: 1952-1954). Chủ nhiệm tuần báo Mạch Sống, Dương Hà chủ bút - báo chỉ xuất bản được một số rồi tự đình bản vào 1955 ở Sài Gòn.

Cộng tác viên, tạp chí ở Sài Gòn: Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Văn Nghệ Tập San, Văn Hoá Á Châu, Tân Dân, Tạp chí Sống (Ngô Trọng Hiếu), Sinh Lực, Đời, Nhật Báo Sống, Tuần báo Đời (Chu Tử), Trình Bầy, Tiền Tuyến, Sóng Thần (Uyên Thao), Lý Tưởng,v.v… -

Đăng truyện ngắn Les Immondices dans la banlieue trên báo Le Monde Diplomatique (Paris 12-1970)

Đăng thơ trên tạp chí Tenggara, Kuala Lumpur - Malaysia) từ 1968-1972- sau in lại thành tập: Asian Morning, Western Music (Sài Gòn 1971, tựa Gs Lloyd Fernando).





BÚT KÝ & TRUYỆN


THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 1/2

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E -mail 2/2

CHÀNG VĂN SĨ ĐẤT TỀ

ĐÊM DÀI TÌNH ÁI

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 3

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA -Chương 1 Kỳ 1

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 1 Kỳ 2

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 2

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 3

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 2/2

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 3

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 3 tiếp theo

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 4

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 4

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 5

CON CHÓ LIÊM SỈ

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 6

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 5

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 7

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 8

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 9

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 10 - KẾT





BIÊN KHẢO


LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 1

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 2

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 3

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 4

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 5

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 6

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 7

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 8

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 9

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 10

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 11

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 12
























THAY LỜI DẪN

Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..

Newvietart xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :

a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)

b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).

c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc, sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)

d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.." (Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).

e) Le Journal d'Extrême Orient (Saigon, 3 Décembre 1959)" Lược sử văn nghệ Việt nam-Hisotire de la littérature vietnamienne". Histoire sommaire de la littérature vietnamienne, òu l'auteur passe en revue les écrivains d'avant guerre 1930-1945. Cette oeuvre est tirée sur ronéo avec une tirage limitée. Fruit de minuitieuses recherches et d'une riche documentation donnée une vue d'ensemble des diverses époques et tendances des écrivains, des poètes du Vietnam, de leurs oeuvres, d'une littérature riche de plusieurs millénaires suivant le cours de l'Histoire. C'est une synthèse remarquablement coordonné annotée parle critique éminent qu'est ThếPhong qui l'achevée dans les derniers jours de Juin 1956

(đã in ở cuối sách "LSVNVN-Nhà văn tiền chiến 1930-1945 của ThếPhong, NXB Vàng Son Saigon 1974)...

Từ Vũ và Newvietart chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã cho phép đăng tải toàn bộ tập Lược Sử Văn Nghệ, tài liệu không thể thiếu cho những người yêu chuộng văn chương nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt cho những người muốn khách quan sưu tra sử liệu .




BÀI THỨ 12

PHẦN THỨ NĂM
SƠ LƯỢC VỀ CÁC NHÀ VĂN ĐỘC LẬP

Tiết 1. – Khái quát về các nhà văn độc lập.

Tiết 2. – Tiểu thuyết phóng sự: TAM LANG - VŨ BẰNG

Tiết 3. – Tiểu thuyết tâm tình: NGUYỄN XUÂN HUY - NGUYỄN VỸ - NGUYỄN KHẮC MẪN - ĐỖ THÚC VỊNH - CẨM KHÊ - MỘNG SƠN - THANH CHÂU.

Tiết 4. – Tiểu thuyết tự sự: THIẾT CAN - NGUYỄN VĂN XUÂN

Tiết 5. – Tiểu thuyết dã sử: NGUYỄN TRIỆU LUẬT - LAN KHAI - PHAN TRẦN CHÚC - TRÚC KHÊ

Tiết 6. – Kết luận về các nhà văn độc lập viết sơ lược.


________________________________________________


Tiết 1

KHÁI QUÁT VỀ CÁC NHÀ VĂN ĐỘC LẬP VIẾT SƠ LƯỢC.

Sau khi lướt qua tài sản tinh thần các nhóm, nhà thơ điển hình, sơ lược; bây giờ đến phần nhận định các nhà văn độc lập. Nhà văn độc lập không ở một nhóm nào nhất định, dầu đôi khi cộng tác với cơ quan nhóm, nhưng không tham gia đường lối, sinh hoạt văn nghệ chung. Tác phẩm của họ mang nhiều nhãn hiệu nhà xuất bản khác nhau. Nếu đứng trong nhóm nào, thì chỉ là lẻ tẻ; không thể so sánh với Tự Lực văn đoàn hoặc Hàn Thuyên được.

Tuy nhiên, sản phẩm tinh thần nhà văn vẫn nhất định nằm trong một khuynh hướng rõ rệt.

Trong phần năm, chúng tôi bàn sơ lược, tổng quát nhìn văn nghiệp mỗi nhà văn sơ lược. Phần sau, phân tích tỷ mỷ nhà văn điển hình qua các khuynh hướng. Tỷ dụ, khi nói về ngành tiểu thuyết phóng sự: Tam Lang, Trọng Lang, Vũ Bằng; chỉ nhắc đến một nhà văn phóng sự điển hình Vũ Trọng Phụng là đủ. Bởi lẽ, nếu không chọn nhà văn điển hình cho một khuynh hướng nào, không thể nào trong một lần nói hết nhà văn đầy đủ chi tiết; hơn nữa với các nhà văn sơ lược; theo chúng tôi, không cần thiết nói đầy đủ như nhà văn điển hình. Lẽ, có viết hằng chục cuốn sách nói về một nhà văn không tiếng tăm gì cũng chẳng ích lợi gì, phải dành chỗ cho nhà văn điển hình xứng đáng. Ấy điển hình sơ lược; quan niệm, ý nghĩ của tôi khi viết bộ sách này, về nhà văn một thời qua đi, gần như bỏ nghề hay bị tê liệt, ít sáng tạo đi nữa. Chẳng hạn xu hướng tâm tình tiến bộ: trong số những nhà văn như Nguyễn Xuân Huy, Nguyễn Vỹ (còn là nhà thơ, nhưng không mấy tiếng tăm), Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Khắc Mẫn, Mộng Sơn–Tôi chọn hai nhà văn cùng khuynh hướng ấy điển hình là Ngọc Giao và Thuỵ-An-Hoàng-Dân. Hoặc nói về Nguyễn Công Hoan điển hình cho loại tả chân xã hội phong kiến, Lê Văn Trương điển hình cho lối viết truyện trường giang và nhân vật có tính chất anh hùng rơm. Sau cùng, Tô Hoài điển hình cho lối văn đặc biệt là nhân cách hóa tả loài vật ….

Phê bình tổng quát, không chú trọng chi tiết nhỏ, chắc chắn chúng tôi hoặc các bạn đều có quan niệm riêng, có lối riêng nhìn cùng nhận xét. Chẳng hạn Trương Chính viết phê bình, nhìn với lối thán phục toàn diện như một người nhìn lên; còn Hoài Thanh nhận định một cách tùy hứng; Thiếu Sơn cùng chung ý nghĩ với Trương Chính có kiến thức rộng và kinh nghiệm nhận định vững vàng. Vũ Ngọc Phan vượt tất cả những nhà phê bình trong giai đoạn ấy, ông viết tỷ mỷ về bất cứ nhà văn nào và bàn dài giòng. Cho rằng như vậy không thể có lối nhìn tổng quát, hệ thống hóa được một di sản văn chương quá lớn, mênh mông. Muốn hướng dẫn du khách thăm vườn hoa, theo tôi phải có hệ thống khoa học phân chia rành mạch. Và giới thiệu bông hoa chúa của mỗi loài hoa, bông hoa đẫy đà vượt trội mà thôi – ấy là nhà văn điển hình cho mỗi khuynh hướng vậy.

Tiết 2

TIỂU THUYẾT PHÓNG SỰ

1. TAM LANG (1900 – 1986)

Tam Lang tên thật trong đời Vũ Đình Chí. Nhà báo ban đầu, rồi chuyển sang viết phóng sự. Còn là tác giả tập phóng sự Tôi kéo xe (1935), Đêm sông Hương (1938), Lọng cụt cán (1939), Người ngợm (1940)... Tiền chiến viết cho Đông dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh, Trung Bắc tân văn, Thực Nghiệp dân báo…. Sau tiền chiến, ông cộng tác với nhiều báo ở Hà Nội. Năm 1951 chủ bút nhật báo Giang Sơn, phụ trách tòa soạn Tia Sáng đặc san, Ngô Vân chủ nhiệm. Năm 1954, di cư vào Nam là một trong những chủ nhiệm nhật báo Tự Do.

Tác phẩm của Tam Lang đều là phóng sự tiểu thuyết. Tập Tôi kéo xe chỉ có giá trị tương đối khi so sánh với tác phẩm khác của Vũ Trọng Phụng. Đặc tính phóng sự Tam Lang châm biếm, nhạo đời, răn đời, không độc ác. Phê bình Tam Lang, Vũ Ngọc Phan khen văn chương và ý nghĩa của ông lịch lãm, nhân vật tư tưởng bác ái; viết trong Nhà văn hiện đại:

“...Tư tưởng thật là luân lý, nhưng tư tưởng thật là bác ái, bao giờ cũng có cái khuynh hướng bênh vực hạng người nghèo khó, kém hèn, mà bênh vực vì lẽ phải, vì nhân đạo, chứ không xen lẫn một ý chính trị nào…”

Hiện Tam Lang không còn sáng tác được một tác phẩm văn chương nào tương đối giá trị; hoặc để tiếp nối cho sự nghiệp văn nghệ. Sự viết của ông bây giờ, như Thiếu Sơn; chỉ là kiếm cơm độ nhật, qua những bài báo đôi khi có chút giá trị hàng ngày(48) .

2. VŨ BẰNG (1913 -1984)

Tiểu sử.

Sinh năm 1913 ở Hà Nội. Bắt đầu viết văn năm 17 tuổi, đầu tiên báo An Nam tạp chí của Tản Đà. Sau viết cho các báo Trung Bắc tân văn, Công dân, Ích hữu,… và làm thư ký tòa soạn cho các báo Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san vv... Còn hay ký biệt hiệu Tiêu Liêu, Hoàng Thị Trâm, Lê Tâm v.v…

Tác phẩm đã xuất bản:

Một mình trong đêm tối (1937), Chuyện hai người (1940), Tội ác và hối hận, Để cho chàng khỏi khổ một mình trong đêm tối (1941), Cai…. Sau tiền chiến cho xuất bản Thư gửi cho người mất tích (dịch truyện Stephan Zweig) Tân Dân 1950), Khảo về tiểu thuyết (Phạm Văn Tươi 1955), Hạnh phúc lứa đôi (Thế Giới 1956) dưới bút hiệu Y sĩ Lê Tâm, viết sách vệ sinh cho lớp tiểu học, luận đề Hồ Xuân Hương (Cây Thông Hà Nội, 1950). Dưới bút hiệu Hoàng Thị Trâm viết tiểu thuyết Chớp bể mưa nguồn, Nghệ thuật làm mẹ, Mỗi tháng chỉ có năm ngày thụ thai, Các cô gái dậy thì nên biết, Trẻ, Đẹp, Sống lâu, sáu quyển sau này do Thế Giới xuất bản…. ở Sài Gòn sau 1954 Đời đơn giản dưới bút hiệu Vũ Bằng, dịch–(Phạm Văn Tươi xuất bản 1956; dưới bút hiệu Tiêu Liêu dịch tác phẩm Stephan Zweig Hai mươi bốn tiếng trong đời người đàn bà (Thanh Bình 1953).v.v...

Truyện của ông không đặc sắc, không bản sắc riêng. Ngoài tư tưởng tầm thường tả cảnh với pha tình yêu cụp lạc, gây cấn, éo le, đoạn văn ướt át, có thể tìm thấy đầy rẫy trong nhiều truyện hạ cấp khác. Duy tập phóng sự tiểu thuyết Cai khá hơn cả; tiêu biểu cho sự nghiệp văn chương đó là thiên hồi ký đặc sắc anh chàng nghiện rồi cai thuốc. Ông còn viết nhiều truyện ngắn đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy của Vũ Đình Long, từ năm 1949 trở đi, như Đoàn kết thân ái (T.T.T.B, số 4), Trong đất Hà (số 3). Ất, khúc ngâm trong đất Hà phóng sự nói về sinh hoạt Hà Nội trong ngày đầu tiên khói lửa, gọi tắt là trong Thành.

Tính chất phóng sự trong văn chương Vũ Bằng không linh động, truyện ngắn không có lập ý cao, bố cục như phân tích nhân vật về tâm lý, hình tượng sống không xuất sắc. Những truyện chọn dịch sau tiền chiến Thư gửi cho người mất tích, tương đối giá trị, viết trong lập trường nhà văn ở Thành ủng hộ kháng chiến. Một lối truyện ngắn khác là truyện động tác, ba bốn chữ lại một gạch nối, Vũ Bằng tự trạng cho là một khám phá mới của đời văn chương đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy; lại chính cóp nhặt giấu xuất sứ của Marchak, nhà văn Nga viết văn trước ông đăng trong tập truyện ngắn chọn lọc Xô Viết có tựa Domaine Russe (Thế giới Nga).

Về biên khảo, ông là người có học hỏi chịu tìm hiểu nghiên cứu. Tuy nhiên đọc sách có nhiều loại người có thể tiếp nhận, chẳng hạn đọc coi người viết sách là thầy, thứ hai coi người viết sách là bạn, mới nói đến loại người thứ ba, đọc sách để làm tài liệu tham khảo để vượt… Vũ Bằng viết sách biên khảo chưa biết chế biến những gì học được vào biên khảo, hiểu biết bản thân vẫn chỉ là một loại étalage de connaissances (tạm dịch: bầy hàng tri thức bất khả dụng) mà thôi. Khảo về tiểu thuyết tương đối giúp ích cho người không có vốn sinh ngữ hoặc cho ai nói chung, ít khảo cứu có thể coi như là tài liệu tìm hiểu văn học văn chương Tây Phương. Tài liệu này đã cho đăng trên Trung Bắc Chủ Nhật vào năm 1941 - 1942, sau tiền chiến in lại thành sách.

Nhiều sách dưới biệt hiệu khác, chỉ là mánh khóe kiếm cơm tầm thường, chép dịch tài liệu ngoại quốc (Trẻ, Đẹp, Sống lâu, Vệ Sinh lớp Ba), một lối kiếm cơm hạ đẳng của nhà văn trốn tránh nhiệm vụ, và không có tinh thần bao nhiệm tác phẩm. Mặc dầu nhà văn có nhiều biệt hiệu; nhưng tinh thần sáng tác phải được coi như một.

Về tiểu thuyết, Vũ Bằng chỉ là một nhà văn dưới mức bình thường, trung bình kém.

Tiết 3

TIỂU THUYẾT TÂM TÌNH TIẾN BỘ

1. NGUYỄN XUÂN HUY

Sinh ngày 15-7-1915 ở Nam Định. Viết cho các báo Đông Tây, Phụ Nữ Thời đàm, Nhật tân, Tân thiếu niên, Hà Nội Báo v.v… Là nhà văn của tuổi trẻ, chuyên viết chuyện lớp người mười bảy, mười tám, chớm vào hội thanh xuân yêu đương. Tác phẩm: Nắng đào 1939, Duyên Bích Câu 1940, Thềm nhà cũ 1941, Người tráng sĩ áo lam 1949, Nghệ thuật làm việc (dịch), Ông Già trong động Kỳ Lân 1941, Truyện Thiếu Sinh 1941, Viết và Sống (khảo luận văn chương 1941, Rosa Luxembourg (dịch) 1945, Người đàn bà chống lại thế giới (dịch) 1946… Sau tiền chiến, một vài cuốn tái bản lại như Nắng đào, Viết và Sống, Duyên Bích Câu…

Nguyễn Xuân Huy là nhà văn tuổi trẻ, thanh niên thiếu nữ thường được dùng làm nhân vật chính trong hầu hết truyện của ông. Ngưỡng cửa nhà trường dùng làm bối cảnh, phía sau là mối tình lãng mạn trong trắng, ngây thơ (Nắng đào). Hình tượng sống nhân vật trong truyện Nguyễn Xuân Huy có vốn sống, văn linh động, chau chuốt, nhẹ nhàng, tình tiết mơ mộng nên thơ (Duyên Bích Câu), Truyện mượn cốt truyện cổ viết lại theo sự dàn xếp của tác giả. Nguyễn Xuân Huy là nhà văn thành công vào bậc nhất ở tiền chiến với truyện dã sử Duyên Bích Câu. Chúng tôi chưa thấy ai có thể có giọng văn mơ màng, đôi khi ẩn hiện, lịch lãm hơn văn chương Duyên Bích Câu. Nội dung không cần bàn đến, đó là một truyện hay lấy từ đề tài cổ văn.

Về thơ, lối diễn tả bóng bẩy hờn mát, giẫn dỗi rất đáng yêu trong bài Giận nhau, in trong truyện Nắng đào. Thơ, văn Nguyễn Xuân Huy làm cho người đọc sống lại với mối tình rất nên thơ thuở mới vào đời khiến nhớ đến loại truyện của Tourguenieff như Mối tình đầu. Tất nhiên khía cạnh sống Nguyễn Xuân Huy không sâu rộng bằng nhà văn cổ điển Nga. Đọc văn ông, cảm giác thật khoan khoái, thở phào, nằm trên giường nhìn ra ánh nắng non trưa, nghe tiếng gà sao xác, giàn hoa bên cạnh lung lay theo gió, có mái đầu xanh ẩn đâu đó hiện tâm tình. Ông là nhà văn nổi tiếng đã đạt được lối văn tươi mát trẻ trung hồn nhiên.

Trích từ:

GIẬN NHAU

Hôm nọ em biết học

Khiến cho anh bất bình

Khẽ đánh em cái thước

Vào bàn tay xinh xinh

Anh nhiếc em “biếng lười”

"Rắn mặt" cùng "khó dạy"

Rồi lệ em chan hòa

Rồi lòng anh tê tái…

Giận anh em ủ rũ

Từ hôm đó mà đi!

Anh hỏi em không đáp

Anh cười, em ngoảnh đi

Chơi “Đi trốn đi tìm”

Em không chơi với nữa

Khăn đào em đang thêu

Cho anh, em bỏ dở

Hôm nay em đã cười

Nũng nịu đến “xin lỗi”

Được để anh làm cao

“Sao em không giận mãi”

(Trích Hương xuân)

NGUYỄN XUÂN HUY

2. NGUYỄN VỸ (1912-1971)

Sinh năm 1912 ở Quảng Ngãi. Là thi sĩ tác giả vần thơ Bạch Nga hai chữ và có in thơ bằng tiếng Pháp. Tác phẩm tiểu thuyết của ông: Đứa con hoang (1938), Người yêu của Hoàng Thượng (1938), Thi Sĩ Kỳ Phong (dưới biệt hiệu Lệ Chi, Chiếc bóng (1944)vv... Sau tiền chiến in Chiếc áo cưới mầu hồng, Hoang vu (thơ), Tuấn Chàng Trai Đất Việt (nhiều tập) vv...

Thơ của ông tầm thường, lối thơ đề xướng sớm rơi vào quên lãng. Truyện của ông đồng chất văn chương Vũ Bằng, gây cấn, éo le; đôi khi lại ưa diễn tả cụp lạc như kỳ tình trinh thám (Thi sĩ Kỳ Phong); đôi khi pha chất anh hùng rơm của Lê văn Trương. Sự nghiệp của ông chỉ được câu thơ, trong bài Thơ gửi cho Trương Tửu khiến cho người đời còn nhắc đến tên ông “nhà văn Việt Nam khổ như chó”(49) . Nói theo lối phê bình Hoài Thanh, thì Nguyễn Vỹ là “người có chí cao mà tài mọn”. Sự nghiệp của ông chỉ một giá trị nhỏ, căn cứ qua lối thơ hai chữ Sương rơi… Nếu Diệu Anh là người bình thơ cho Nguyễn Xuân Sanh, thì Trương Tửu cũng vậy; với Nguyễn Vỹ, một lối gà nhà bình luận). Sau tiền chiến, ông chủ trương báo hàng ngày Dân Ta và tập san văn chương tạp lục Phổ Thông. Ông chết trong một tai nạn xe hơi trên đường Sài Gòn Mỹ Tho năm 1971.

3. NGUYỄN KHẮC MẪN (19??- 19??)

Là nhà văn đứng trước ngưỡng cửa tiền chiến 1944 -45, như Nam Cao, Trần Đăng, Nguyễn Dân Giám; nổi tiếng muộn màng khởi điểm cách mạng bùng nổ, thời đoạn tranh tối tranh sáng. Khoảng thời gian ấy, người ta quên lãng bài thơ hay của Nguyễn Dân Giám, ý thơ dệt bằng máu xương, tình yêu, hoặc mẫu chuyện tình tương tự. Trong số người không may ấy, còn có Trần Cư, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao…(50)

Nguyễn Khắc Mẫn là nhà giáo dùng tài nguyên rung cảm đời sống gõ đầu trẻ, viết văn. Nhân vật chính truyện của ông đều là cậu giáo mới ra đời, hoặc dậy học ở thôn trang hay tỉnh lỵ, yêu đương, mơ mộng như Lòng cha (NXB Người Bốn Phương), Nỗi lòng (NXB Người Bốn Phương). Ông viết phóng sự như Đồng tiền hai mặt (hai tập, phóng sự hồi ký), Mẹ tôi ( Đại Học Thư Xã xuất bản). Kin Lảu(51) , truyện bối cảnh đường rừng nói về thú uống rượu cần với thiếu nữ Thái (NXB Đời Mới 1944).

Nhân vật chủ động là cậu giáo trong tiểu thuyết như đã phân tích, mang nhiều hình tượng đời sống gõ đầu trẻ. Nói khác đi, nếu chúng ta đã khảo sát tác phong, lề lối sống của cậu giáo, bó buộc phải đọc văn ông; vì nếp sống điển hình phản ánh rất sát thực trạng xã hội thời đó. Văn phóng sự tiểu thuyết trong Đồng tiền hai mặt không xuất sắc lắm.

Ông là nhà văn tâm tình tiến bộ, văn truyền cảm, lãng mạn khổ đau. Nhân vật, bối cảnh có hình tượng sống, đem kinh nghiệm cuộc đời bản thân vào văn chương. Có thể coi Nguyễn Khắc Mẫn là nhà văn nổi tiếng muộn màng của giai đoạn giao chế độ, trước giờ khởi điểm cách mệnh.

4. ĐỖ THÚC VỊNH (1920- )

Sinh năm 1920 ở Hà Đông. Tác phẩm đầu tay Bóng tre xanh, giải thưởng văn chương Alexandre de Rhodes. Sau tiền chiến tái bản lại ( Nguyễn Đỗ, Sài Gòn 1956), Lê Kim Hà Ích (truyện dịch, Người Việt Tự Do xuất bản 1956), và mấy cuốn sách luận đề giáo khoa như Hồ Xuân Hương…(NXB Bốn Phương, 1955).

Trong Bóng tre xanh, tác giả đả kích bọn quan lại, phong kiến, nêu thực trạng dã man tục tảo hôn thôn quê Bắc Việt. Cuốn tiểu thuyết mang nhiều vết tích đời sống nông thôn ở tiền chiến.

Tuy không có chiều sâu điển hình cho trào lưu văn hiến, nhưng ở một khía cạnh nào đó (tục lệ tảo hôn, phong kiến áp bức), Đỗ Thúc Vịnh là nhà văn tương đối tương đối giá trị trung bình.

5. CẨM KHÊ (19?? -19??)

Tác giả tiểu thuyết Chân trời mới (Tân Dân,1941). Tả lại một mối tình nhà nho trải qua nhiều ngang trái, chế độ giao thời giữa đạo lý Đông Phương và sự xâm nhập Tây Phương. Nội dung bình cũ rượu cũ, diễn đạt được tâm tư người của thiên đường đã mất (paradis perdu). Là nhà hoài vọng quá vãng, tuy không điển hình như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Chu Thiên... song là một nhà văn giá trị trung bình.

6. MỘNG SƠN (1916 -1992)

Tên thật Vũ Thị Mai Hương. Vào làng báo từ 1933, viết cho Việt Nữ, Đàn Bà v.v… Vợ nhà văn biên khảo Nguyễn Uyển Diễm cùng chủ trương NXB Vỡ Đất ở Hà Nội từ 1950. Nữ văn sĩ tác giả: Văn học triết luận, (nhận định phê bình văn học, Đại Học Thư Xã 1944). Tương đối sách này giá trị, sau tiền chiến, cho xuất bản tiểu thuyết Vượt Cạn (Thế giới, 1953) gồm toàn truyện nói về tâm trạng sản phụ. Cuộc đời nghèo khổ sản phụ bị quên lãng, hậu cảnh cho con vì nghèo nàn, tình tiết cảm động, thương tâm, rút ra một thực trạng sống ở hậu chiến. Tập bút ký có giá trị trên hai phương diện: nội dung xúc tích và văn thể có kỹ thuật của tiểu thuyết gia. Sau Thụy An Hoàng Dân về văn; bà là nhà văn nữ giới có giá trị.

7. THANH CHÂU (1912- )

Tên thật Ngô Hoan. Sinh năm 1912 ở Thanh Hóa. Học qua Trường tiểu học Thanh Hóa, Trung Học Vinh, sau ra Hà Nội học Tú tài. Bỏ dở Tú tài Pháp rồi viết truyện ngắn cho Tiểu Thuyết Thứ Bảy, từ 1933, viết cho Phổ Thông bán nguyệt san vv... Giai đoạn kháng chiến, Thanh Châu từng là chủ tịch một xã thuộc tỉnh Thanh Hóa, cán bộ chính trị quân đội (VNDCCH). Sau 1954 công tác tại báo Văn Nghệ (Hà Nội)

Các truyện ngắn: Trong bóng tối (1934), Người thầy thuốc (1938), Tiểu thuyết: Sám Hối Nửa Đêm (1940), Bóng Người ngày xưa (1941), Cùng một ánh trăng (1942), cuốn tiểu thuyết dài đặc sắc của ông, trong vai họa sĩ Phan và một nhân vật nữ, người đàn bà xấu trở thành vợ tốt, đề tài khác lạ, cách diễn đạt hình tượng mới, văn phong một nhà văn có tài. Truyện ngắn Hai sắc hoa Ti gôn (1937) nói về nhân vật Lê, họa sư Lê Chất, người lấy máu vẽ các cô gái đẹp, đề tài tranh cãi với những bài thơ T.T. KH sau này.(52)

Tiết 4

TIỂU THUYẾT TỰ SỰ:

THIẾT CAN – NGUYỄN VĂN XUÂN (54) (19??- 19??)

Tên thật Nguyễn Văn Xuân, viết truyện tự sự, nhưng không phải là tự luận (tự sự có luận đề). Giọng văn trong Dã Tràng thật cảm động, tác phẩm xuất bản: Dã tràng (1939), Cát bụi (1940), Trinh nữ (1941). Ba tác phẩm trên, duy có Dã tràng đặc sắc, tiêu biểu cho văn nghiệp. Cái tôi Nguyễn Đức Quỳnh còn ẩn thể, cái tôi Nguyên Hồng dám dùng ngôi thứ nhất, và cái tôi Thiết Can tự sự ẩn thể qua nhân vật mang tên Đông, trái với Xuân. Ngay trong trang đầu, Thiết Can tự trạng:

“… Tôi có một người cô. Cô tôi đã chết rồi. Tôi chỉ biết thương người sau khi đã chết. Hỡi ơi! Nhớ đến cô, đứa cháu bất hiếu có công viết thiên lịch sử này, lịch sử một đời khổ hạnh của cô, lịch sử hết thảy những bậc “gái già” đáng kính và đáng thương…”. Charles Dickens với David Copperfield, tự truyện này khiến ông nổi tiếng là văn hào Anh. Nhờ đọc cuốn này mà Maxime Gorki viết Thời Thơ Ấu của tôi, và Thời thơ ấu của tôi sau Club des livres ở Pháp tái bản nhan đề mới là Kiếm sống. Những thiên tự sự (pages autobiographiques) rất cảm động của Panaðt Istrati như Mes départs, Le pécheur d'éponge (Những bước đầu của tôi–Người câu bọt bèo) làm cho bao tâm hồn rung động. Ở nước ta có vài nhà văn viết tự sự; chưa đạt được kỹ thuật tương tự, nhưng đã có một đời với chất liệu rất sâu. Thường thường truyện tự sự do chính khách, văn sĩ nổi danh mới có can đảm tự trạng. Chúng ta đã say sưa với thiên hồi ký Ma vie (Đời tôi) của Léon Trotsky (3 tập, Rieder xuất bản), bây giờ chúng ta thử nhìn vào tự truyện ở Việt Nam xem sao? Đã phân tích về Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyên Hồng, bây giờ đến Nguyễn Văn Xuân.

Alfred de Musset nói: "Muốn viết tự sự, điều kiện đầu tiên là phải có cuộc sống thực (Confession d'un enfant du siècle, Lời thú tội của đứa con thế kỷ). Musset diễn tả hình tượng sống chân thành nhất, bao gồm cả phần sung sướng như đau khổ, mà đau khổ nhiều mới hay viết tự truyện. Cũng không nên quên phần xấu xa bỉ ổi (theo luân lý thời đó quan niệm) thì mới nói đến tự sự giá trị hay không? Cái tôi Nguyễn Đức Quỳnh hay cái tôi J.J. Rousseau còn ẩn thể, lược bỏ sự thực, chưa thể lấy đó căn cứ tiểu sử ngoài cuộc đời. Cái tôi Saint Thomas thần thánh hóa; cái tôi Ernest Renan nghệ thuật hóa cái dở; cái tôi Nguyên Hồng thành khẩn lại chưa có sự đãi lọc cao. Cuối cùng cái tôi Thiết Can, tương đối làm cho người đọc nhìn được nỗi thương tâm nội ẩn vô cùng sâu xa. Nhân vật chính Dã Tràng là Đông. Đông, nhân vật ngoài đời lêu lổng, chơi bời, từ tính lười biếng, ăn bám gia đình như ký sinh trùng không hề dấu diếm. Bà Ký, người đàn bà buôn bán đảm đang, gánh vác công việc gia đình, quên cả tuổi xuân, quên thời vàng son nhất, tình duyên, và cho đến lúc chết đi; không một người đàn ông nào qua dời tiễn chân tới mộ. Bà Lợi Ký biết lo cho các cháu, cả đến người thân thuộc khác hoàn toàn là ký sinh trùng: hút sách, nghiện ngập, phóng đãng.

Văn của Thiết Can cảm động, hấp dẫn, nội dung xúc tích, thương tâm. Nhưng ở Thiết Can không có bối cảnh xã hội rộng lớn để cho người đọc còn có mức biết mà so sánh như uyên nguyên sự phóng đãng của Đông. Kể ra là điều đáng tiếc cho thiên tự sự. Muốn đạt được giá trị tất không thể quên lãng điều này. Bi kịch Thiết Can còn đôi chút nên thơ, theo Vũ Ngọc Phan thì tương tự vẻ nên thơ của Willon, khi chàng thi sĩ này thảo mấy vần thơ về người xử giáo – lại tưởng tượng rằng mình cũng sắp bị treo cổ cho quạ rỉa phân thây.

Đọc văn Thiết Can, nhất là: "Dã Tràng, để hiểu một dòng đời của một gia đình sa sút và mẫu người như bà Ký có trong xã hội Việt Nam ở tiền chiến, một người đàn bà hoàn toàn hy sinh, có lòng tốt cao độ...”(Vũ Ngọc Phan)

Tiết 5

TIỂU THUYẾT DÃ SỬ:

1. NGUYỄN TRIỆU LUẬT (19??-19??)

Nhà văn dùng sử liệu để viết truyện dã sử, không thể bỏ qua Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, Lan Khai,... Đó là nhà văn có lối viết truyện đặc sắc, hấp dẫn thể loại này. Thể văn này dùng dĩ vãng nói lên thực tại, hoặc giáo huấn, hoặc chống lại trật tự xã hội đương thời. Một Bồ Tùng Linh với Liêu Trai chí dị, cùng ý nghĩa. Nước ta vào khoảng năm 1930 cho đến 1945, bao điều đáng nói, cảnh khổ một dân tộc bị thống trị cuối thế kỷ trước đến bây giờ ở độ bùng sôi. Bao nhiêu đề tài có thể khai thác, mà không dễ gì người ta có thể công khai phỉ báng; nên mượn xưa nói nay, mượn thế dương đông kích tây, đó là viết truyện dã sử vậy. Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, Lan Khai... đều bị chết cách thảm thương, hoặc bị phe cộng sản đệ tam thủ tiêu, hoặc do tình địch ám hại; nhưng hoàn toàn vì lý do chính trị. Tác phẩm của ông như Hòm đựng người, Rắn báo oán (1941), Bà Chúa Chè (1938), Loạn kiêu binh (1939), Ngược đường Trường thi (1939), Chúa Trịnh Khải (1940), v.v…

Kỹ thuật viết, tôi nói đến bố cục và xây dựng truyện thì vững; nhưng văn thể luộm thuộm không chú trọng về sử dụng văn thể. Trong ba nhà văn dã sử này, chỉ Lan Khai giá trị ở phần văn chương thôi. Trong Bà Chúa Chè, không thấy ông tưởng tượng thêm một hình ảnh nào khác với giòng lịch sử; chép đúng đà tiến hóa, có cái khác thêm một vài tiểu tiết. Trong Bà Chúa Chè cho trích những câu thơ Pháp, lại chua thêm tiếng Pháp giảng giải, chỉ là trò khoe chữ; khiến người đọc có cảm tưởng ông không phải là nhà tiểu thuyết Việt Nam viết truyện dã sử Việt Nam. Truyện lấy cơ sở ở giai đoạn lịch sử chuyển biến, không hoàn toàn vô căn cứ như truyện dã sử Phan Trần Chúc. Cái hay Nguyễn Triệu Luật, đã dùng tài liệu lịch sử Hoàng Lê Nhất Thống Chí làm nền tảng xây dựng truyện dã sử hay và xác đáng. (Ngô Tất Tố dịch).

Nguyễn Triệu Luật, nhà văn dã sử tài năng. Với nội dung truyện thì bố cục chặt chẽ, còn văn thể ít giá trị văn chương.

2. PHAN TRẦN CHÚC (1905 – 1945)

Phan Trần Chúc viết tiểu thuyết dã sử, tác phẩm đã xuất bản: Lê Hoan, 1939, Sau Lũy Trường dục, 1942, Hồi chuông Thiên Mụ, Thẩm Hoàng Cung (NXB Tân Dân) và những cuốn biên khảo: Vua Hàm Nghi (1935), Vua Quang Trung (1940), Triều Tây Sơn (1942), Văn chương Quốc Âm về Thế kỷ 19, (1944)vv...Năm 1945, nhà xuất bản Chính Ký ở Hà Nội tái bản tác phẩm của ông như Hồi chuông Thiên Mụ, Vua Lê Chiêu Thống (di cảo in lần thứ nhất), Vua Quang Trung, Vua Hàm Nghi (Hà Nội tái bản 1952-53) v.v…

Về tiểu thuyết cuốn Sau Lũy Trường Dực bố cục vững vàng, giải quyết lối thoát nhân vật hay viết hấp dẫn, đặc sắc. Tới Hồi chuông Thiên Mụ cũng là truyện truyền cảm, hấp dẫn; nhưng văn thể hơi rườm rà, lôi thôi, viết như truyện Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách (văn thể). Nói thế, không có nghĩa hoàn toàn chê bai, đả kích các nhà văn có công đầu với văn chương Việt Nam.

Truyện của ông đề cao nghĩa dũng, tình yêu chân thật, đả phá tác phong hủ bại thư lại phong kiến. Nhưng ông không là nhà văn thúc đẩy cách mạng với giọng văn căm hờn, vì bất công vua chúa với nghĩa dũng nhân vật chống lại nhau; kết cục bao giờ cũng thỏa hiệp. Có thể là vua trọng dụng nghĩa sĩ đó, vì hiểu nhầm; hoặc có một trung gian sẽ điều đình cho nghĩa sĩ trở lại hợp tác. Điều ấy, minh chứng trong hầu hết các tiểu thuyết của ông, như Hồi chuông Thiên Mụ chẳng hạn. Nên khép ông vào nhà văn cải cách hơn là thúc đẩy cách mạng gián tiếp.

Về biên khảo, tuy nghiên cứu công phu, song chưa có thái độ lập luận, mà thường ra nhà văn biên khảo dựa vào căn bản nào đó để nhận định vấn đề. Sử liệu cần phải giải thích, điều ấy đòi hỏi lập trường người viết. Nói thế muốn đến hai cuốn Vua Hàm Nghi, Lê Chiêu Thống, Vua Quang Trung. Nhưng cũng nhờ tài liệu đó, yêu thêm nhân vật anh hùng một cách rất tiểu thuyết, còn tài liệu không giá trị bằng cuốn Vua Quang Trung Hoa Bằng (Hoàng Thúc Trâm) hay cuốn Lý Thường Kiệt Hoàng Xuân Hãn. Đôi khi Phan Trần Chúc lại tiểu thuyết hóa biên khảo, điều này không hợp với tài liệu lịch sử (fait historique).

Nhận định sự nghiệp văn chương Phan Trần Chúc, Vũ Ngọc Phan đưa ra ý kiến sau đây:

“… Trong các sách của Phan Trần Chúc chỉ được ở cái đặc sắc là lối nghị luận. Lối nghị luận của ông bao giờ cũng sáng sủa. Nếu muốn tìm giá trị họa chăng đó là những giá trị của ông.

“Còn những tài liệu ông dùng, phần nhiều không được chắc chắn, nên ông không thể tránh được những điều không có trong một cuốn sử. Chắc chắn người ta còn nhớ cái lối văn của Phan Trần Chúc khi ông còn viết Ngọ Báo, Việt Báo rồi Tân Việt Nam. Lối văn ấy là một lối văn cộc lốc tương tự lối văn Hoàng Tích Chu ở báo Đông Tây hồi xưa. Một lối văn mạnh và cứng, nhưng không bao giờ tránh được những cái ngây ngô gần như dịch không thoát một câu tiếng Pháp. Chính lối văn ấy, Phan Trần Chúc đã không bỏ được, trong khi viết những trang lịch sử ký sự, làm cho người đọc phải lấy làm lạ rằng ở miệng cổ nhân sao lắm khi lại thấy những lời quá mới, quá ngây ngô đến thế…”

TRÚC KHÊ (19?? – 19??)

Tên thật Ngô Văn Triện. Tác phẩm đã xuất bản: Cao Bá Quát (1940), Nguyễn Trãi (1941)vv… Là nhà nho có học, căn bản, viết văn không sáng sủa, cách viết biên khảo thiếu mạch lạc, lập luận không rành mạch. Ông dịch Truyền kỳ mạn lục và còn là tác giả Phạm Đình Trọng, Trần Thủ Độ, Tang thương ngẫu lục.v.v...

Ông chuyên khảo về cuộc đời, tư tưởng danh nhân Việt Nam, và là nhà biên khảo ở mức giá trị trung bình.

3. LAN KHAI (1906 – 1945)

Tiểu sử:

Không gì hơn, tìm hiểu tiểu sử Lan Khai, bằng cách đọc lại một đoạn văn truy niệm của nhà văn Ngọc Giao viết trong đặc san Hương Cúc Mới (55) . Đó là bài Gác lạnh khêu đèn nhớ cố nhân. Đọc bài ấy, chúng ta thêm tài liệu về cuộc đời hai nhà văn nổi tiếng trong văn đàn Việt Nam: Lan Khai và Vũ Trọng Phụng. Từ cái chết bi thảm phe cầm quyền khi ấy hạ sát người quốc gia lập trường khác họ, triệt tiêu nhà văn nổi tiếng Khái Hưng chẳng hạn. Một Thạch Lam với đời sống thường hàng ngày, tâm tư sâu kín, với văn chương, nếu không có bạn thân như Thế Lữ, chúng ta khó nhận định được hành động, thái độ nhà văn buổi sinh thời. Hiểu vậy, dễ nhận giá trị bài của Ngọc Giao viết về Lan Khai:

“…Lan Khai chết vào giữa mùa thu tại Tuyên Quang, một ngày loạn rừng. Học trò của anh đã trả công ơn giáo hóa của thầy bằng cách bỏ sư phụ vào rỏ lợn, phó cho sông Lô Giang vùi cuốn. Thật là bi thảm. Nhưng dù sao tôi vẫn không nỡ tin con người tài hoa thế lại chết thảm thương như vậy. Đã nhiều lần, những ngày lưu lạc miền Việt Bắc, tôi thường hỏi về tin anh mỗi khi gặp các bạn văn công tác ghé qua quán nước của tôi đựng ở sườn đồi. Những tin thâu lượm về cái chết của Lan Khai đều không rõ rệt, kể rằng hồi ấy anh bị bắt vì đã từ Tuyên xuôi Hà Nôi, đệ lên chính phủ Trần Trọng Kim một chương trình quân sự rồi lại hội kiến với ông Phan Kế Toại… kể rằng người Nhật hồi đó quý trọng Lan Khai ở vùng Tuyên Quang nên người ta (C.S.) lập hồ sơ khai tử anh hồi ấy. Quân Nhật lui nhanh quá, không kịp đưa liên lạc cho anh nên tác giả Ai lên phố Cát, đã đành bó tay chịu trói trong một cuộc loạn rừng mà hổ báo, trốn loạn như nhau cả. Các bạn văn đều hoài nghi về trường hợp hành hình tiểu thuyết gia lâm tuyền và lịch sử Lan Khai. Nhưng sau cùng tôi đã có dịp gặp người đàn bà tang chế qua đường một buổi chiều tắt nắng lưng đồi hoang quán gió. Người quả phụ đã khóc kể lể cái chết thê thảm của chồng: “quả thực xác anh đã gửi vào mồ sông Lô đỏ sóng, ngày từ ngày binh đao chưa khởi sự bốn phương trời (…)” Tôi không thể quên Lan Khai là một nhà văn nhiều tình cảm lại đa sầu. Ngồi với tôi ở tòa lầu báo quán Hàng Bông của ông Vũ Đình Long, anh thường bỏ bút đứng lên ra tựa vầng trán nóng vì suy tưởng vào hàng song sắt lạnh mà khi nghe thấy tiếng kèn đám ma dưới đường. Anh thờ thẫn nghe tiếng khóc dưới những làn mũ áo, tiếng kèn như bi ai trước những đầu người phủ khăn đen.

Con một vị túc nho có dự vào Đông Kinh Nghĩa Thục, Lan khai là đệ tử cửa Khổng sân Trình. Anh có giọng đọc thơ như một khóa sinh thời mực tàu giấy bản. Nếu bảo rằng Hồ Xuân Hương có tử vi trong Thiên hình, Thiên diện độc dục, thì trong cung mệnh của Lan Khai phải có đào Hồng sương. Khúc đó là những dâm tính đứng cạnh văn tính làm cho các tài tử văn nhân kim cổ thành bất tử. Lan Khai không cần nhớ tuổi mình, anh thèm được trẻ, được yêu, được sống. Anh khát tình như hoa nhài chờ sương gió nở. Anh thèm sống nghĩa là thèm viết, và luôn luôn anh gõ vào chai rượu hát đùa với văn hữu quanh đèn: “Phải có danh gì với núi sông...” Lan Khai sinh năm 1906 và mất năm 1945. Chết bất đắc kỳ tử).

2. Tác phẩm và khuynh hướng. – Lan Khai viết chuyện đường rừng, biên khảo, dã sử. Tác phẩm đã xuất bản: Ai lên phố Cát, Chiếc ngai vàng, Cái hột mận, Gái thời loạn, Người hai bóng, Trang, Tiếng gọi của rừng thẳm, Bóng cờ trong sương mù, Hồng Thầu, Cưỡi đầu voi dữ, Tiếng khóc trong sương, Cánh buồm thoát tục, Đỉnh Non Thần, Cô Dung, Lầm Than (phỏng theo La Mère (Người Mẹ) của Gorki; không đề xuất). Bức thư người không quen (dịch), Ai tình và sự nghiệp, Mực mài nước mắt, Tình người muôn dặm, Truyện đường rừng, Suối Đàn, Rỡn sóng, Bạch Đằng, Tôi nhân hay nạn nhân, Tội và thương, Nàng, Lê Văn Trương (phê bình), Vũ Trọng Phụng (phê bình) Treo bức chiến bào, Cơn ác mộng v.v... Tác phẩm cuối cùng là Mực mài nước mắt (Đời Mới, xuất ban 1944) nói về bi thiết của đời làm văn.

Qua danh mục ông sáng tác nhiều, sung sức, tiểu thuyết dã sử và biên khảo. Về phê bình, ông chưa tạo được một địa vị phê bình; vì quan niệm phê bình vị tình anh em còn nể nang, chưa lý luận, phân giải đanh thép, thích đâu khen đó thiếu phần nhận định khoa học. Nghĩa là cái tôi phiến diện trong chủ quan thô thiển thiên lệch khi phê phán văn chương.

Tiểu thuyết dã sử Ai lên Phố Cát, cuốn truyện giá trị nhất của Lan Khai trong loại dã sử tiểu thuyết.

Truyện đường rừng, Lan Khai có chỗ đứng đặc biệt trong văn đàn, ông viết loại này thật đặc sắc. Những quyển ấy là Tiếng gọi của rừng thẳm, Suối đàn. Ông cho người đọc hiểu thêm đời sống người Việt miền núi, qua hình tượng, cảm xúc vui buồn, phong tục tập quán đặc biệt. Tử cử chỉ, thái độ, y phục; Lan Khai biểu hiện qua lời văn sâu sắc, quan sát tận tường, văn thể thoát và tả xen tình ái rất nên thơ. Tâm lý người Việt miền núi, ông không bỏ sót tục lệ của họ, hoặc lứa thanh xuân yêu nhau hình tượng riêng biệt. Nghệ thuật diễn đạt tâm lý nhân vật truyện, ông không cho người đọc truyện thấy tưởng tượng hão huyền, bia đặt. Lan Khai dẫn người đọc du lịch trong xứ sở đèo heo hút gió, qua bản đàn mơ mộng, điệu nhạc mê ly. Lan Khai còn viết chuyện xã hội, cảnh lầm than, nói về cảnh khổ dân Việt qua Lầm than. Ông mượn cả giọng và nội dung tương tự, nhân vật trong Người Mẹ của Maxime Gorki. Có điều nghi vấn, giữa hoàn cảnh bị thống trị, tại sao Pháp lại để cho cuốn sách lột trần cảnh sống cơ cực lớp người bị thống trị, phản ánh trong cuốn truyện in được? Nguyên tác là của nhà văn xã hội Maxime Gorki.

Lan Khai còn viết những bi thiết cuộc đời đau thương nhà văn, nói chung trong Mực mài nước mắt. Phải chăng cảnh khổ nào đi đến cao độ, sẽ toát ra văn chương bằng nhiều lối, can đảm phủ nhận luân lý xã hội để viết tự truyện, hoặc ẩn thể. Mực mài nước mắt giá trị về nội dung, cả đến văn chương cũng lưu loát. Có dịp bàn về Lan Khai trong một cuốn sách khác, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này chi tiết hơn.

Lan Khai viết truyện phong tục miền quê, thợ thuyền trong truyện vừa không dài lắm Cô Dung. Ông viết với giọng văn dài giòng, đôi khi tác giả lại nhẩy vào giải thích.

Tóm lại Lan Khai mượn cốt truyện, giọng, hơi Maxime Gorki; nhưng Lầm than là cuốn truyện phỏng dịch nhiều công sáng tạo của Lan Khai.

Truyện dã sử, ông đã rất xuất sắc trong Ai lên Phố Cát. Về truyện đường rừng Tiếng gọi trong rừng thẳm và Suối Đàn. Vũ Ngọc Phan nhận định về giá trị văn chương và nội dung của Lan Khai: “Nét bút của Lan Khai phần nhiều đơn giản. Vẽ cảnh đường rừng, tả những tính tình chất phác thực của cô gái Mán, những trận gió rung cây, những rừng vàng, cỏ tía nét bút của ông rất thích hợp”. Nhưng truyện của Lan Khai, như loại đường rừng, xã hội như chúng ta vừa bàn ở trên còn lưu lại và làm tăng trưởng danh tiếng nhà văn Lan Khai mãi mãi. Chúng ta có thể nói rằng Lan Khai khai thác truyện đường rừng trước tiên và nổi nhất trong số đó có cả Thế Lữ, tác giả Vàng và Máu. Ta hãy tưởng tượng từ cảnh ngây thơ, chất phác cô gái mạn ngược, Lan Khai tả cho chúng ta nghe, đẩy tham dự cùng sống trong cảnh núi rừng, thâm sơn cao cả, huyền bí, mơ mộng thật hấp dẫn và huyền diệu! Ông biết tận dụng bối cảnh núi rừng, khai thác, vận dụng mọi khả năng biểu hiện tâm tư thầm kín người sơn cước sống ở Lạng Sơn. Ngoài ra góp vào bình diện văn nghệ chúng ta khung cảnh mới lại, một nét nhìn mới về mạn núi non heo hút; sự kiện mở đầu cho một giai đoạn truyện đường rừng. Một Lan Khai dã sử, truyện đường rừng; một Vũ Trọng Phụng với Giông tố, Số Đỏ lên án một xã hội nô lệ, một Đôi bạn của Nhất Linh hun đúc cách mệnh; thì Lan Khai phơi bầy ẩn ức xã hội, sinh hoạt dân nghèo trong Lầm than với giọng văn căm hờn thúc đẩy gián tiếp cách mạng.

Tiết 6

KẾT LUẬN VỀ CÁC NHÀ VĂN ĐỘC LẬP ĐIỂN HÌNH.

Chúng tôi trình bày với bạn đọc về nhà văn đọc lập viết sơ lược qua phóng sự tiểu thuyết, tâm tình tiến bộ, dã sử, tự sự vv... Lối văn bay bướm hội thanh xuân mới bước vào ngưỡng cửa đời, chúng ta kể đến Nguyễn Xuân Huy, lối văn khai thác một khía cạnh sống cậu giáo tỉnh ly trong văn Nguyễn Khắc Mẫn, cùng thời còn có thêm Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Dân Giám, Nam Cao... Đồng thới với Nguyễn Khắc Mẫn, đó là những nhà văn nổi tiếng muộn màng. Rồi từ thành thị về phong tục nông thôn, Đỗ Thúc Vịnh qua Bóng tre xanh; chúng ta còn được sinh hoạt nông thôn sau năm 1940. Từ đó, bắt qua ngành tự truyện, Thiết Can với Dã tràng, kể lại sự hối hận đứa cháu bạc bẽo, phóng túng bạc đãi đối với người cô ruột. Và dã sử, truyện đường rừng, Lan Khai đã cho chúng ta một âm hưởng không khí huyền bí đầy thơ mộng trong Ai lên Phố Cát, Suối Đàn, Tiếng gọi trong rừng thẳm.

Phần thứ sáu, chúng tôi dành nhà biên khảo, phê bình. Sẽ tìm hiểu nhà văn phê bình như Hoài Thanh, Thiếu Sơn, Trương Chính; hoặc các nhà văn học khác như: Nguyễn Đăng Thục, Kiều Thanh Quế, Doãn Kế Thiện, Nhượng Tống, Phan Văn Hùm, Hoàng Xuân Hãn và Lê Thanh vv...

Phần thứ bẩy sẽ phân tích chi tiết nhà văn điển hình cho mỗi khuynh hướng. Vũ Trọng Phụng, ngôi sao sáng trong các tinh tú hội tụ xung quanh: Trọng Lang, Tam Lang, Vũ Bằng. Một Thụy-An-Hoàng-Dân, Ngọc Giao điển hình nhà văn tâm tình tiến bộ. Đến Ngô Tất Tố với lối văn phóng sự hoài cảm dĩ vãng bao trùm Trúc Khê, Chu Thiên; sau cùng Nguyễn Công Hoan đại diện lối văn phân tích tình yêu giai cấp, tả chân phong kiến. Cuối cùng Tô Hoài đại diện một chiếu ngồi không ai thay thế: truyện thôn quê có một khía nhìn đặc biệt: loài vật được nhân cách hóa, Từ chú Vện, chú bồ câu, chú mèo...sống chung quanh ta.




CÒN TIẾP ...





© CẤM ĐĂNG TẢI LẠI NẾU KHÔNG CÓ SỰ ĐỒNG Ý CỦA TÁC GIẢ VÀ NEWVIETART .



TRANG CHÍNH TRANG THƠ ĐOẢN THIÊN TRUYỆN NGẮN ÂM NHẠC