TÁC GIẢ
TÁC PHẨM





Tên thật Đỗ Mạnh Tường.

Sinh ngày 10-7-1932 tại Yên Bái
trong giấy tờ tuỳ thân 1936.

Khởi sự viết văn cuối 1952.

Truyện ngắn đầu tiên Đời học sinh ký Tương Huyền đăng trên nhật báo Tia sáng ở Hà Nội (17-11-1952), Ngô Vân, Chủ nhiệm).

Truyện dài đầu tiên in ở Sài Gòn: Tình Sơn Nữ (1954).

Tổng số trên 50 tác phẩm đủ thể loại: thơ, truyện, phê bình, khảo luận, dịch thuật.

Từ 1952, ở Hà Nội cộng tác với các nhật báo Tia sáng, Giang Sơn, tạp chí Quê hương, phóng viên các báo Thân Dân (Nguyễn Thế Truyền), Dân chủ (Vũ Ngọc Các) (Hà Nội: 1952-1954). Chủ nhiệm tuần báo Mạch Sống, Dương Hà chủ bút - báo chỉ xuất bản được một số rồi tự đình bản vào 1955 ở Sài Gòn.

Cộng tác viên, tạp chí ở Sài Gòn: Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Văn Nghệ Tập San, Văn Hoá Á Châu, Tân Dân, Tạp chí Sống (Ngô Trọng Hiếu), Sinh Lực, Đời, Nhật Báo Sống, Tuần báo Đời (Chu Tử), Trình Bầy, Tiền Tuyến, Sóng Thần (Uyên Thao), Lý Tưởng,v.v… -

Đăng truyện ngắn Les Immondices dans la banlieue trên báo Le Monde Diplomatique (Paris 12-1970)

Đăng thơ trên tạp chí Tenggara, Kuala Lumpur - Malaysia) từ 1968-1972- sau in lại thành tập: Asian Morning, Western Music (Sài Gòn 1971, tựa Gs Lloyd Fernando).





BÚT KÝ & TRUYỆN


THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 1/2

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E -mail 2/2

CHÀNG VĂN SĨ ĐẤT TỀ

ĐÊM DÀI TÌNH ÁI

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 3

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA -Chương 1 Kỳ 1

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 1 Kỳ 2

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 2

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 3

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 2/2

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 3

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 3 tiếp theo

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 4

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 4

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 5

CON CHÓ LIÊM SỈ

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 6

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 5

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 7

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 8

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 9

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 10 - KẾT





BIÊN KHẢO


LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 1

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 2

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 3

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 4

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 5

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 6

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 7

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 8

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 9

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 10

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 11

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 12

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 13






















THAY LỜI DẪN

Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..

Newvietart xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :

a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)

b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).

c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc, sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)

d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.." (Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).

e) Le Journal d'Extrême Orient (Saigon, 3 Décembre 1959)" Lược sử văn nghệ Việt nam-Hisotire de la littérature vietnamienne". Histoire sommaire de la littérature vietnamienne, òu l'auteur passe en revue les écrivains d'avant guerre 1930-1945. Cette oeuvre est tirée sur ronéo avec une tirage limitée. Fruit de minuitieuses recherches et d'une riche documentation donnée une vue d'ensemble des diverses époques et tendances des écrivains, des poètes du Vietnam, de leurs oeuvres, d'une littérature riche de plusieurs millénaires suivant le cours de l'Histoire. C'est une synthèse remarquablement coordonné annotée parle critique éminent qu'est ThếPhong qui l'achevée dans les derniers jours de Juin 1956

(đã in ở cuối sách "LSVNVN-Nhà văn tiền chiến 1930-1945 của ThếPhong, NXB Vàng Son Saigon 1974)...

Từ Vũ và Newvietart chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã cho phép đăng tải toàn bộ tập Lược Sử Văn Nghệ, tài liệu không thể thiếu cho những người yêu chuộng văn chương nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt cho những người muốn khách quan sưu tra sử liệu .





VÀI DÒNG TÂM SỰ NGƯỜI VIẾT SÁCH

T rước hết cảm ơn bậc đàn anh bước trước: Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh – Hoài Chân ... (chẳng là gần với tài liệu văn học tham khảo, cũng như so sánh).

Viết sách biên khảo hay phê bình, giá trị nhiều hay kém có thể nằm trong vài ý kiến dưới đây: Lập trường người viết phải có trước khi tìm kiếm tài liệu. Ấy là đã phải kể tới kiến thức, học và đọc; khả năng và tâm hồn văn nghệ nhạy cảm của người viết phê bình.

Lại cần kinh nghiệm, nhỡn quan nhìn, phải được chế biến theo lập luận người viết càng nhuyễn, sách càng phong phú. Không thể coi sách tương tự như cours nhà trường, làm thành gọi là biên khảo, phê bình văn học. Cũng như étude, non-fiction, fascicule, étude critique sur critique phân minh rõ ràng.

Tài liệu dồi dào, nhưng tài liệu nào chưa đọc, không nên bao biện. Người viết không định ý, lập luận; hẳn tài liệu phong phú dồi dào đi nữa; cuối cùng người viết chết theo với tài liệu sưu khảo được. Nhớ tới Nguyễn Hiến Lê trong một sách biên khảo bàn về tài liệu, nhất là tìm tài liệu văn học, sử học Việt Nam khó gấp bội phần khi sưu tập tài liệu tương tự ở nước ngoài. Ý kiến thật xác đáng. Nước ta triền miên khói lửa, và tầm mức thẩm định giá trị tài liệu văn học chưa được sử dụng đúng mức, công bằng.

Cộng đời sống thấp kém, ít thời giờ đọc sách, mua sách, bảo tồn sách, nên tủ sách văn học Việt Nam cần cho người viết sử dụng còn ở tình trạng rất thiếu thốn.

Khi viết bộ sách này, khích lệ tôi nhiều nhất phải kể tới một người: đó là anh Nguyễn Đức Quỳnh. Ông nhắn nhủ tôi rằng: “tài liệu nhiều chưa chắc đã là một yếu tố thành công, còn phải dám làm, dám nhận trách nhiệm”.

Đôi khi, chính kẻ dám làm lại liều lĩnh và dám biết mình ngu. Như vậy, chắc chắn tôi biết trách nhiệm khi viết sách. Cảm ơn một lần nữa nhà văn lão thành Nguyễn Đức Quỳnh, ông bạn văn tiền chiến vong niên. Nữa, cho tôi xin cảm ơn thêm vài tấm áo vải lao động: như anh chị Hai Nụ ở Xóm Chùa (Tân Định) làm nghề thợ thêu. Anh chị nuôi sống tôi hai năm trời: cơm và nhà ở. Nhà thuê vào năm viết bộ sách là một trăm năm mươi đồng. Tiền cơm bốn trăm đồng. Chưa hết, ông già Lịch bán thuốc lá, cũng ở đây; cho tôi chịu khoảng hai ngàn đồng tiền thuốc lá. Thuốc lá Ruby khoảng sáu đồng một bao. Sáu tháng liền, tôi chỉ đi ra tới ngõ; xa hơn là 147B Trần Quang Khải (Sàigòn 1) tới tiệm cho thuê sách Đức Hưng. Nơi này đủ gần hết tác phẩm tiền chiến, giấy dó Hàn Thuyên, mướn đem về đọc để làm tài liệu viết. Một người bạn nữa anh Lung cũng ở Xóm Chùa ngập nước, có một tủ sách khá lớn. Anh cho mượn và tôi sử dụng một cách sở hữu chủ. Anh từ miền Bắc vào Nam lâu, có viết báo tài tử, một người thật chân tình. Phải chăng chân tình này làm tôi cảm động, khi nghe kể đoạn đời anh tham gia kháng chiến ở Nam Bộ bị Pháp cầm tù. Đời tù đầy thêm kinh nghiệm sống, đời quất ngọn roi phũ phàng bao nhiêu, nạn nhân chịu nổi hờn đau sẽ sống lâu hơn; sau thì người ấy sẽ được liệt vào bậc tốt nhất xã hội trên mọi phương diện.Và một bạn học cũ Hà Nội : Tạ Văn Tài đạp xe đạp thăm tôi để khích lệ - trước khi anh đậu hai thủ khoa Văn chương và Luật khoa Sài Gòn rồi sang Mỹ du học.

THẾ PHONG





BÀI THỨ 13

Tiết 1

KHÁI QUÁT VỀ CÁC NHÀ VĂN BIÊN KHẢO, PHÊ BÌNH.

Sau Phạm Quỳnh, nhà phê bình đầu tiên trong nền văn học Việt Nam ở giai đoạn nền móng đến năm 1930 là Thiếu Sơn. Ông cho xuất bản cuốn Phê bình và Cảo luận; và cách đó chín năm sau, một nhà phê bình nữa, ông Trương Chính với cuốn Dưới mắt tôi. Hai năm sau lại Hoài Thanh xuất đầu lộ diện bằng tác phẩm phê bình giới thiệu trích dẫn thơ Thi nhân Việt Nam 1931- 1942. Sau hết là Vũ Ngọc Phan ra đời với bộ sách phê bình lớn Nhà văn Hiện đại (5 tập, Vĩnh Thịnh Hà Nội tái bản) phê bình tổng hợp văn thơ hiện đại. Mặt khác, Trương Tửu, Lan Khai viết về đời văn nghiệp mỗi nhà văn riêng rẽ.

Phê bình, đòi hỏi sức học vững vàng, lập trường rõ rệt, kinh nghiệm nhận định, hơn nữa còn phải có óc sáng tạo. Nhận thấy đó là những yếu tố căn bản nhà phê bình, Vũ Ngọc Phan vẫn là nhà phê bình văn học đáng được lưu ý hơn cả. Lối phê bình tuy tỷ mỷ, so sánh kỹ lưỡng, biết chế biến sự hiểu biết vào phê phán. Tuy nhiên có hai điều còn mắc phải; theo thiển ý chưa thể tránh ít nhiều thiên tình cảm (phê bình Tư Lực văn đoàn hoặc Tô Hoài còn vị nể). Ngành phê bình thúc đẩy văn nghệ diễn tả tốt, nếu phê bình đứng đắn, thì người được phê bình phải coi như một vinh dự. Còn sự im lặng có mưu mô, đó là cảnh tượng rất đáng thương tâm! (le critique impitoyable, c’est taire).

Còn các nhà văn biên khảo tiền chiến như: Phan Văn Hùm, Kiều Thanh Quế, Nguyễn Văn Tố, Doãn Kế Thiện, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Đăng Thục, Lê Thanh, Mộc Khuê (Ba Mươi Năm Văn Học V.N.) Doãn Kế Thiện viết đời danh nhân thành đạt (homme illustré) qua Danh nhân Việt Nam, kể tiểu sử thuở thiếu thời. Thái độ này cần được phát triển, nhờ loại sách ấy thanh niên thiếu nữ học tập cuộc đời đau khổ, vật lộn đấu tranh hướng thượng (cho nghề về sau). Đó là kinh nghiệm làm vững lòng tin căn bản cho vĩ nhân bước vào chông gai cuộc đời sau này. Thái độ J.J Rousseau ở ngày sinh thời bị trục xuất sang Anh lánh nạn, nhờ triết gia David Hume bao bọc; Charles Dickens thuở niên thiếu khổ nhục; Stendhal bị cha mẹ bỏ rơi cấp dưỡng sống lang bạt ở Ba Lê; Maxime Gorki thuở niên thiếu đầy nước mắt… chẳng hạn vậy. Nên khi xét về Doãn Kế Thiện, với lý do tại sao ông không tả danh nhân ngoại quốc, vì lẽ muốn cho người đọc thông cảm danh nhân Việt Nam gần hơn. Vĩ nhân thế giới, từ Đông qua Tây, ít ai có buổi thiếu thời may mắn cả. Picasso hay Modigliani cũng thế, bao hình nhục đời vùi dập. Modigliani đã phải tự tử, Van Gogh cùng trường hợp, Picasso phải gạ bán rẻ tranh cho bà chủ quán, đó là lần thứ hai ông đến Paris; vì nghèo khổ Renoir tự tử hụt bên bờ sông Seine; bởi nước băng đông lại.

Ngoài nhóm Hàn Thuyên ra, các nhà văn biên khảo ít tự gây được thế đứng và phô diễn thật sự lập trường một cách rộng lớn. Người viết triết luận tiền chiến chỉ sao chép lại vốn triết Đông hoặc Tây, ít có ai vượt được hoặc tạo cho bản thân một chủ nghĩa triết học riêng biệt.


Tiết 2

NHỮNG NHÀ VĂN PHÊ BÌNH.

1. THIẾU SƠN (1908-1978)

Tên thật Lê Sĩ Quý. Sinh năm 1908 ở Hải Dương, hiện còn sống ở miền Nam(56) . Đầu tiên, làm ở sở Bưu điện, gặp Phan Khôi, và được Phan Khôi khuyến khích ngay ban đầu. Viết cho báo Nam Phong, 1927, Phụ nữ tân văn (1931), Đại Việt (1943), Nam Kỳ thời báo (1943), Justice (1945-1949)… Tác phẩm xuất bản: Phê bình và Cảo luận, Phan Khôi viết tựa (Hà Nội 1933). Người bạn gái (Hà nội 1942), Đời sống tinh thần (tiểu luận). Câu chuyện văn học 1945, Giữa hai cuộc cách mạng (Mạch Sống, Sài Gòn 1947)v.v..

Chỉ có giá trị tiền chiến, nếu muốn xét giá trị văn nghiệp Thiếu Sơn. Lối phê bình không hệ thống và xen kẽ lập trường, thái độ thô thiển vào phê phán văn chương. Phương pháp phê bình không logique, như nhà viết tựa Phan Khôi nhận định. Lối phê bình thô thiển, tùy hứng (critique vulgaire et spontanée. Ở buổi đầu kể cũng là giá trị. Ở Nga, một Biélinsky viết phê bình văn học sau tập hợp tất cả bài phê bình in trong cuốn Textes philosophiques choisies (Tạm dịch: Tuyển tập triết luận), được sùng bái như anh hùng bình diện văn nghệ Nga trước cách mạng Tháng Mười. Và sau này cũng còn giá trị bất biến. Nào là Saint Beuve, Benjamin Constant, Thánh Thán, Tư Mã Thiên sử gia phê bình Trung Hoa, R.M. Albérès của Pháp chỉ ngoài ba mươi tuổi đã là phê bình gia nổi tiếng có hạng.

Thiếu Sơn, một tông đồ Phan Khôi, hết lời thán phục bậc thầy; thì ở đây ông không có thái độ vượt như một Auguste Comte đối với Saint Simon, một Marx với Hegel, J.P Sartre với Kierkegard, cho nên không dám nhân định thẳng thắn. Có lẽ vì kiến thức so với thầy chưa vượt nổi? Phê bình Phạm Quỳnh mới mẻ, Nguyễn Bá Học cứng dắn, Hy Đình có duyên, Phan Khôi thâm thúy e lệ. Đây không phải là tả tính tình một nhân vật được phê bình, đây là viết nghị luận, danh từ thảo luận (mots pour debats). Xét giá trị Phan Khôi coi ông có công đầu phê bình văn học Việt Nam. Thì xếp ông vào hạng người công đầu (précurseur). Ông còn viết truyện Người bạn gái. Hoặc truyện viết về sau này, không có gì đặc sắc. Ở mức bình thường không có lập ý mới, văn và tư tưởng trong khuôn sáo ước lệ.

Hậu chiến, ông không xuất bản tác phẩm nào; chỉ an hưởng địa vị bằng nhiều bài báo giá trị hồi ký, ít giá trị thực thể. Giá trị của ông chỉ ở tiền chiến, nếu đường hiện tại đến đây vẫn căn cứ trên bài báo đăng tải trên nhật báo và báo tạp lục Phổ Thông của Nguyễn Vỹ xuất bản ở Sài Gòn thập niên 60.

2. TRƯƠNG CHÍNH (1918- )

Từ 1930-1940, các nhà phê bình đầu tiên: Trương Chính, Phan Khôi, Thiếu Sơn… qua cuốn Dưới mắt tôi, Trương Chính phê bình nhận định gom lại trong định đề: không phân giải và trích dẫn. Đó cũng là lối viết rất mới thời Trương Chính, nội dung phê bình có phương pháp khoa học, biết nhìn ưu khuyết điểm mỗi nhà văn. Một danh ngôn Trung Hoa: “Biết cái dở một người thân yêu, biết cái hay của kẻ địch” hẳn Trương Chinh biết manh nha áp dụng khi phê phán. Tuy nhiên vẫn bị rơi vào trường hợp mà Vũ Ngọc Phan đưa ra phê bình gắt gao:

“...Cây bút phê bình của Trương Chính tuy đã có phương pháp nhưng chưa được sâu sắc, ông thấy đâu hay khen đó, thấy dở đâu chê đó; rồi lại khen, khi chê ông nói trùm lắp tất cả làm cho người ta có cảm tưởng ông phá đổ tất cả những gì ông vừa xây dựng để lại xây những cái vừa bị phá đổ...” Vũ Ngọc Phan ẩn thể đả kích Trương Chính không có nét nhìn tổng quát, hoặc gọi là nhìn viễn ảnh (perspectives). Không những Trương Chính mắc phải mà chính Vũ Ngọc Phan không có ý định này khi viết sách phê bình văn học Nhà văn hiện đại. Trương thiên về thẩm mỹ văn học nhiều hơn chú trọng nội dung tư tưởng tác giả trong tác phẩm, ôm ấp trong nhân vật, mà các nhà phê bình Tây phương làm trái lại. Từ Saint Beuve đến R.M. Albérès, cũng vẫn định đề ấy làm mực thước nhận định giòng tâm tư tác giả bị phê bình. (tác phẩm khác của ông Những bông hoa dại. (tiểu luận 1941).

3. HOÀI THANH – HOÀI CHÂN. (1909 –1982)

Tên thật Nguyễn Đức Nguyên, tác giả tuyển thơ phê bình thi nghệ Thi nhân Việt Nam 1932 –1941. Hoài Thanh chuyên viết phê bình khảo luận. Lối nhận định phê bình giới thiệu sơ lược, tùy hứng thái quá, nên chỉ giá trị tương tự Mộc Khuê khi viết biểu nhất lãm Ba mươi năm văn học V.N. Tác phẩm Hoài Thanh có giá trị tài liệu văn học để người sau dựa vào đó làm căn bản phê bình. Và Mộc Khuê cũng có ích cho con mắt lớp sau nhìn hệ thống tổng quát bao trùm diễn tiến bình diện văn học tiền chiến. Trong sách, Mộc Khuê còn đề cập đến vấn đề diễn tiến quá trình báo chí.

Hoài Thanh bênh vực lập luận của ông ngay khi vào đề viết:

“...Nếu trong quyển này ít khi tôi nói đến cái dở, bạn hãy tin rằng không phải vì tôi không thấy cái dở. Nhưng tôi nghĩ rằng dở thì không tiêu biểu cho cái gì hết. Đặc sắc mỗi nhà thơ chỉ ở trong những bài hay. Thỉnh thoảng có nói đên cái dở cũng là cốt cho nổi cái hay mà thôi..." (trang 392, Thi Nhân Việt Nam, Nguyễn đức Phiên xuất bản lần hai, 1941-42, Huế).

Nói như Hoài Thanh, ở con mắt nhà phê bình theo thẩm mỹ quan; không nhìn tư tưởng và tổng quát, chúng tôi nhận rằng ý kiến trên là một ý kiến khá độc đáo. Ông là nhà phê bình tùy hứng, phóng túng, không theo hệ thống nào, khuynh hướng nào. Điều này có sự tai hại lớn, là không có sự so sánh diễn tiến sự nghiệp mỗi tác giả được phê bình; mà ở ngoài đời văn nghiệp có sự diễn tiến ấy. Từ chối cái xấu cũng là ca tụng cái tốt, nhưng tính xấu là sự kiện thành hình có cũng như cái hay. Tôi muốn nói đến nội dung hai thứ so sánh liên quan với nhau mà Vũ Ngọc Phan lại hiểu theo nghĩa của ông cho rằng Hoài Thanh muốn giải thích che lấp cái dốt bản thân lối phê bình của Hoài Thanh là một mắt ông viết:

“...Phê bình rặt cái hay, cái đẹp trái với lối phê bình của Nguyễn Văn Tố, là lối chỉ trích vụn vặt...”

Trở lại vấn đề này, hãy nhớ André Gide và Stephan Zweig viết về Dostoievskð không hề nói đến cái dở đại văn hào Nga, mà lại nói được hết tư tưởng tác giả, một tông đồ biết giải thích cái hay theo mắt nhà văn nhiều thẩm mỹ quan; một nhà phê bình nắm được đường lối tác giả, qua con mắt nhìn viễn ảnh tổng quát. Vũ Ngọc Phan sai ở điểm đó chăng? Cái khác giữa Hoài Thanh và nhà văn Pháp, Đức kia; là Hoài Thanh nhìn phiến diện và các vị kia lại có lối nhìn tổng hợp.

Thi Nhân Việt Nam giá trị cuốn tuyển tập thi ca (anthologie) như Pháp, Nga thường thực hiện; giới thiệu tác giả nói khuynh hướng sơ lược, tác phẩm không nặng nhiều phê bình, giải thích; như thế cũng có giá trị chung là bồi đắp cho văn học sử thêm tài liệu văn học. Nói chung, so sánh tác phẩm Hoài Thanh với cuốn phê bình văn học Vũ Ngọc Phan, thì Thi nhân Việt Nam không còn giá trị tổng quát.

Vũ Ngọc Phan nhận định về Hoài Thanh như sau:

“...Còn điều này nữa, mà tôi nhận thấy ở đoạn cuối trong quyển hợp tuyển của Hoài Thanh, đó là lời rào trước đón sau, giống như những bài báo trong một vụ tuyển cử, mà người viết muốn ngăn đoán những sự công kích ào ào. Thí dụ, việc gì một nhà biên khảo lại phải viết những câu như thế này “Có người thơ tuyệt đẹp mà đối với tôi lại toàn những cử chỉ rất mực xấu xa. Họ phũ phàng, họ nhỏ nhen”. Dù ông có viết thêm “Nhưng thôi tôi nói ra làm gì?”nhưng ông cũng đã nói ra rồi, những thời này chỉ là những lời rào đón. Tất cả những lời nhỏ to ấy, theo tôi chỉ nên thu gọn một ít trong bài tựa, vì nó không có tính cách vĩnh viễn và không hợp với quyển khảo luận thi ca...”

Thật xác đáng và lý thú biết bao với lời phê luận tuyệt vời của Vũ Ngọc Phan!


Tiết 3

NHỮNG NHÀ VĂN BIÊN KHẢO

PHAN VĂN HÙM (1902 –1946)

Phan Văn Hùm sinh năm 1902 ở Búng, Lái Thiêu (Nam Phần). Là con trưởng một gia đình trung lưu ở Thủ Dầu Một. Gia đình có ba anh em: bà Phan Thị Năm và ông Phan Văn Hóa. Phan Văn Hùm đứng trong lập trường đệ tứ với Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, nên bị Cộng sản đệ tam thủ tiêu vào năm 1946. Phan Văn Hùm có họ gần xa với Đồ Chiểu, một nhà ái quốc miền Nam, ngay từ hồi Pháp mới đặt chân lên đất nước. Sau khi Phan Văn Hùm đậu bằng Thành Chung ra Hà Nội theo học Công Chính. Tốt nghiệp, trở về Nam Bộ làm vườn, không ra làm việc quan. Năm 1929, vì là bạn Nguyễn An Ninh, thực dân lấy cớ vụ lộn xộn ở cầu Bến Lức bắt giam ông đưa vào Khám Lớn Sài Gòn. Năm 1933, ông qua Paris du học, đậu cử nhân triết học, tốt nghiệp ở Sorbonne. Về nước, ông đứng trong hàng ngũ những nhà ái quốc tranh đấu như: Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch… xuất bản báo La Lutte và Đồng Nai. Năm 1937, Phan Văn Hùm lại bị vào tù vì một bài báo trên La Lutte. Năm 1942, ra tù ông bị đưa đi quản thúc ở Tân Uyên, Biên Hòa. Tác phẩm đã xuất bản: Biện chứng pháp, Phật giáo triết học (Tân Việt 1941), Vương Dương Minh (Tân Việt 1944), Nỗi lòng Đồ Chiểu… và bài khảo cứu giá trị đăng trên các báo Tri Tân, Thanh Nghị. Tác phẩm Ngồi tù Khám lớn (Bảo Tồn, 1929) lên án thực dân qua thiên hồi ký tả cảnh cực khổ trong khám với giọng văn căm hờn. Cho rằng: vào tù tinh thần sẽ nát như tương hay sẽ cứng dắn như đồng, dẫn lời Nguyễn An Ninh: “En prison le coeur se brise ou se bronze”.

Phan Văn Hùm, nhà học giả ái quốc, uyên thâm, có lập trường chính trị rõ rệt, giàu lòng yêu nước, muốn giải thoát dân tộc thoát ách nô lệ. Tác phẩm Phan Văn Hùm là sách có giá trị cho người đọc hiểu thêm triết-học-chính-trị, bồi bổ, làm giàu vốn hiểu biết. Mặc dầu Phật giáo triết học hoặc tác phẩm Vương Dương Minh được viết theo lập trường đệ tứ.

Phan Văn Hùm qua đời, nhưng cuộc đời cách mệnh làm gương sáng mẫu mực thế hệ sau. Một Tạ Thu Thâu, cùng một ý nghĩa danh nhân (homme illustré); ngoài ra, ông còn là nhà biên khảo văn học giá trị có công với văn học sử.

2. HOÀNG XUÂN HÃN (1909 –1996)

Sinh năm 1909 ở Hà Tĩnh. Từng là Bộ Trưởng Quốc gia Giáo dục vào 1945 trong Chính phủ Trần Trọng Kim. Tốt nghiệp trường Bách Nghệ, đậu Thạc sĩ khoa học. Ông viết khảo cứu, lịch sử. Tác phẩm xuất bản: La Sơn Phu Tử (Minh Tân Paris), Danh từ khoa học (Minh Tân, Paris), Lý Thường Kiệt I, II (Sông Nhị, Hà Nội), Hà Thành thất thủ (Sông Nhị xuất bản), Thi Văn Việt Nam (sách biên khảo giáo khoa), Chinh Phụ Ngâm bị khảo (Minh Tân, Paris)v.v…

Tiền chiến thì Hoàng xuân Hãn chưa nổi tiếng về biên khảo, mà chỉ nổi tiếng về là nhân tài học giỏi, như Ngụy-Như-Kontum, Nguyễn Mạnh Tường, Lê Văn Thêm vv... Hồi ấy Phạm Huy Thông còn nổi tiếng thi sĩ, ngoài danh tài thạc sĩ triết học. Trần Đức Thảo nổi tiếng đỗ đầu triết lý hiện tượng luận, tông đồ rất xuất sắc Husserl. Và triết gia hiện đại Pháp Merleau Ponty đậu thứ hai. Trần Đức Thảo tối ưu chiếm danh dự (triết gia gà nhà cùng chuồng, Merleau Ponty là philosophe chevronné của nhóm Existensialisme Jean Paul Sartre. Hoàng Xuân Hãn, Trần Đức Thảo cùng biên khảo, Trần Đức Thảo sau cho xuất bản Triết lý đi về đâu?, nhưng giá trị văn học Hoàng Xuân Hãn nhiều hơn.

Năm 1945, Hoàng Xuân Hãn tham gia trong chính phủ Trần Trọng Kim và cho xuất bản những cuốn sách giá trị như Danh từ Khoa học. Người ta biết ông hơn từ dạo đó, nhất là vụ đưa Việt ngữ vào Đại học đầu tiên làm chuyển ngữ thay Pháp văn.

La Sơn Phu Tử, cuốn sách giá trị với người đọc muốn tìm hiểu thái độ xử thế con người chính trị bị hoàn cảnh xã hội xô đẩy vào đường cùng chế độ giao thời. La Sơn Phu Tử là trung thần nhà Lê chịu ơn lộc nhiều giòng vua. Khi Quang Trung đại thắng mời ra cộng tác, ông từ chối, tuy nhiên vẫn giúp ý kiến đến đời vua Cảnh Thịnh. Khi Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, lấy hiệu Gia Long mời ông ra làm quan; vẫn không nhận và sau chết già trên núi.

La Sơn Phu Tử có tên từ dãy núi La Sơn, thái độ vô vi La Sơn thoát thai từ thuyết Lão Trang. Nên người viết sách ghi lại gương anh hùng cũng có tính chất vô vi đó.

Là cuốn sách nhiều tài liệu, hình ảnh, rất ích lợi, làm giàu tư tưởng cho những ai đa mang trường hợp nan giải có lối thoát. Sách chia làm 25 chương. Chương 1 đến 7 nói về quãng đời thư sinh La Sơn. Chương 7 đến 9 đời quan trường và từ quan. Chương 10 quan trọng nhất bàn về tư tưởng thái độ sống La Sơn ẩn dật ở núi Thiên Nhạn. Chương 11 đến 18, giai đoạn giao thiệp cộng tác với Quang Trung và Cảnh Thịnh. Chương 19 giao thiệp với Nguyễn Ánh và chương 20 với Bảo Hưng, chương 21 qua đời. Chương 22 nói về thơ văn và số học, tâm lý ,chính kiến ,tổ tiên, gia thế. Chương chót 25 gồm phụ lục và ấn tín, lưu bút Quang Trung. Tác giả sưu tầm tài liệu phong phú, lập luận viết khách quan trong chủ quan định hướng, nói chung. Ông có lập luận riêng chẳng hạn mang tâm trạng hòa hợp với anh hùng, cùng mang tư tưởng riêng vào sách. Ngày xưa Bùi Kỷ, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng phê bình truyện Kiều mang tâm trang giải oan ám ảnh (obsession), Hoàng Xuân Hãn còn tìm được chính bản Hạnh Âm thi cảo của La Sơn Thi Kinh Giải Âm và thư vua Quang Trung kèm theo ấn tín và trò chuyện như trao đổi với La Sơn. Sự kiện này chỉ tìm thấy ở nước văn hóa cao như văn hóa Pháp. Người dân Pháp nhặt được mảnh lưu bút Victor Hugo cũng đem đến thư viện Hugo gom góp. Văn hóa Tàu xưa đến kẻ sĩ nước ta không dám dùng chữ thánh hiền làm điều bậy bạ, không dẫm chân lên chữ Nho mỗi khi gặp ngoài đường. Lần đầu tiên ở nước ta, Hoàng Xuân Hãn làm được việc rất ích lợi, thật vĩ đại. Như khảo sát vấn đề nào dốc hết tâm đến tài liệu ấy. Rất có thể tác giả khác viết hay hơn Hoàng Xuân Hãn, nhưng tài liệu đến giờ này khó hơn được ông.

Danh từ khoa học, giải nghĩa danh từ không hẳn là tự điển, vì không có định nghĩa, hay nói khác đi, là người soạn sách sáng chế danh từ. Tài liệu này không dịch ở Bách Khoa từ điển nào của Pháp hay ngoại quốc. Danh từ Khoa học ở phần trên là danh từ khoa học lấy ở tiếng Pháp theo vần thứ tự abc…

Danh từ Khoa học soạn công phu, đó là cuốn sách ý niệm sơ khởi về khoa học, cần nhiều sáng kiến, mở rộng khả năng nghiên cứu. Soạn giả mất nhiều công phu, bắt đầu ông từ ngày sang Pháp du học rồi dạy học, trải qua nhiều kinh nghiệm đúc kết hoàn thành. Tác giả đề cao dân tộc Việt, qua lời vào đề, nghĩ về tiền đồ tổ quốc tin tưởng dân tộc mình không thể có mặc cảm và thua sút, từng qua bốn biển năm châu, tin tưởng ở dân tộc sẽ có nhiều người tài giỏi. Phương pháp viết sách hướng dẫn, giáo huấn, mở rộng con mắt tìm hiểu cho người đọc. (trên lãnh vực khoa học nên dùng danh từ khoa học)

Cuốn Chinh phụ ngâm bị khảo, ông đưa ra ý kiến đối lập với tài liệu văn học sử có sẵn. Thái độ này coi như tiến bộ, dù sai hay đúng; chứng minh kẻ viết muốn vượt, và đính chính sự kiện chưa hoàn hảo, bồi đắp nền văn nghệ phong phú hơn. Tất nhiên, chủ quan tột độ khi làm việc này. Cùng tìm hiểu nguyên do, tài liệu đối lập này với tài liệu cũ đúng hay không? Thì Bạch Diện, tác giả truyện dã sử Nguyễn Thái Học trả lời Hoàng Xuân Hãn qua Chinh Phụ Ngâm bị khảo với nhận xét đanh thép, đầy thuyết phục(57) :

“...Ông Hoàng Xuân Hãn chưa có bằng chứng rõ rệt trong tay, mới chỉ được ông Huy Chiêm gửi một bản sao bằng chữ La-tinh mà đã quả quyết rằng bản Chinh Phụ Ngâm hiện đương được mọi người truyền tụng (ông Hãn gọi là bản A) là của ông Phan Huy Ích, như thế e nông nổi quá.

Chẳng những ông Hoàng Xuân Hãn mà cả đến ông Đông-Châu-Nguyễn-Hữu-Tiến năm 1926, cũng cho rằng bản Chinh Phụ Ngâm (bản A, theo sự sắp đặt của ông Hãn) là của ông Phan Huy Ích, ông Đông Châu cũng căn cứ vào bức thư của một người cháu họ Phan. Người ấy cho biết cả một bài thơ ngẫu tuật bằng chữ nho bảo rằng cụ tổ mình làm sau khi dịch bản Chinh Phụ Ngâm của ông Đặng Trần Côn; bài thơ ấy như sau:

Nhân mục tiên sinh Chinh Phụ Ngâm

Cao tình dật điệu bá từ lâm

Cận lai khoái trá tương truyền tụng

Đã hữu thôi sao vi diễn âm

Vận luật hát cùng văn mạch túy

Thiên chương tu hướng nhục thanh tầm

Nhàn trung phiên dịch thành tân khúc

Tự tín suy minh tác giả tâm

Ông Đông Châu đã dịch ý bài thơ ấy như sau:

"...Ông Đặng Trần Côn người Nhân Mục làm ra bài Chinh Phụ Ngâm bằng chữ Hán, từ điệu cao kỳ đã truyền bá ở chốn từ lâm, ai cũng truyền tụng lấy làm khoái trá lắm, đã có người thổi sáo diễn ra ca nôm, nhưng theo về âm luật thì dịch sao cho hết được cái tinh túy trong mạch văn, vậy phải theo thiên chương và hiệp với âm nhạc mà diễn ra mới được. Nay nhân buổi đã dịch thành khúc mới chắc tin rằng suy minh được bụng dạ tác giả...”

“Tuy có bài thơ ấy, song cũng chưa dám đoán bản Chinh Phụ Ngâm là của ông Phan Huy Ích nên ông Đông Châu đặt ra một nghi vấn: “xem bài thơ trên đó truyền lại đủ chứng tỏ rằng "Chinh Phụ Ngâm" khúc bấy lâu nay vẫn truyền do bà Đoàn Thị Điểm diễn nôm, dễ thường không phải, mà chính là cụ Phan Huy Ích diễn ra đó chăng?”

“Ông Đông Châu đặt nghi vấn như vậy là phải. Vì một bức thư với một bài thơ của con cháu họ Phan gửi đến chưa có thể là một bằng chứng xác thực rằng Phan Huy Ích là dịch giả bản Chinh Phụ Ngâm. Về phần tôi; tôi cho rằng có lẽ ông Phan Huy Ích đã sao chép lại bản Chinh Phụ Ngâm của bà Đoàn Thị Điểm, vì ông thấy là bài văn hay mà còn con cháu của ông sau này ngộ nhận là của ông Phan Huy Ích chăng?(58) Bà Đoàn Thị Điểm sinh năm Ất Dậu (1705) tức là năm Chính Hòa thứ 29 cuối đời vua Lê Hiến Tông, còn ông Phan Huy Ích sinh năm Canh Ngọ (1750) tức là năm Cảnh Hưng thứ mười một đời vua Lê Hiến Tông. Như vậy là bà Đoàn Thị Điểm sinh trước Phan Huy Ích 45 năm. Bà Đoàn Thị Điểm mất năm Kỷ Tỵ (1749) năm Cảnh Hưng thứ 10 tức là bà mất trước năm ông Phan Huy Ích xuất sinh.

Đối với ông Phan Huy Ích bà Đoàn Thị Điểm là bậc tiền bối, vậy có thể rằng bản di văn của bà Đoàn Thị Điểm đã được ông Phan Huy Ích sao lại vào tập sách của ông? Ngày xưa, các nhà nho khi làm được bài thơ bài văn không khi nào tự mình đem khắc và in ra, nghĩa là không công bố sản phẩm văn chương của mình mà chỉ để cho người nhà hoặc bạn bè ngâm đọc với nhau thôi. Những khi, người nào thấy bản văn hay chép lại để giữ trong nhà. Vậy ông Phan Huy Ích cũng là người chép lại bản Chinh Phụ Ngâm của bà Đoàn Thị Điểm vì thấy là bản văn hay hoặc có khi ông Phan Huy Ích cũng phỏng theo bản chữ Hán của ông Đặng Trần Côn mà dịch lại rồi ông làm bài thơ kia chăng? Về sau này con cháu của ông không hiểu, nhận ngay bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm.

Còn một điều đáng lấy làm lạ rằng ông Phan Huy Chiêm, từ năm 1926 đến 1952, sao không đem bằng chứng đưa cho ông Đông Châu và ông Hoàng Xuân Hãn để chứng minh bản Chinh Phụ Ngâm (bài A) là của cụ tổ mình? Ông Chiêm chỉ gửi thư bản sao chữ La-tinh. Đáng lẽ ông Hoàng Xuân Hãn nếu không được diện kiến ông Phan Huy Chiêm đem chụp ảnh di cảo của ông Phan Huy Ích để xét đoán cho đúng. Chưa có bằng chứng đích xác, ông Hoàng Xuân Hãn đã quả quyết ngay bản Chinh Phụ Ngâm (bản A) là của ông Phan Huy Ích, là ông Hãn đã mắc một cái sai nhầm lớn.

KHÔNG THỂ GÁN BẢN B LÀ CỦA BÀ ĐOÀN THỊ ĐIỂM

Đã mắc cái nhầm lớn vì không đủ bằng chứng xác thực, ông Hoàng Xuân Hãn còn mắc một cái nhầm lớn hơn nữa là ông gán bản Chinh Phụ Ngâm (bản B) là của bà Đoàn Thị Điểm. Bản này kém hơn bản A và không được truyền tụng nên ít người biết đến. Ông Hoàng Xuân Hãn căn cứ vào chữ nữ giới mà quả đoán rằng bản B này là của bà Đoàn Thị Điểm. Cái nhầm của ông Hoàng Xuân Hãn càng tỏ rõ hơn, khi ông đem chụp ảnh hai trang bản viết cũ Chinh Phụ Ngâm ấy. Theo ảnh, thì cuối bài Hán văn có hai chữ nữ giới (chữ giới và răn) ông Hãn ghép ngay với bản văn nôm (bản B) rồi cho là của bà Đoàn Thị Điểm. Chúng tôi cho rằng người nào đó nhận thấy bản Chinh Phụ Ngâm chữ Hán của ông Đặng Trần Côn là một áng văn hay, liền chép lại, rồi lại chép một bài văn, thơ, hay ca răn con gái ở trang sau, nhưng trang trước (cuối bài Hán văn) còn thừa giấy, lại đặt cái nhan đề nữ giới nghĩa là răn con gái.

Bài nữ giới có thể là bài cổ văn Nàng Ban Chiêu, vợ Tào Thê Thúc đời Hậu Hán, người ta nhận thấy là bài văn có ý nghĩa, cũng chép tiếp vào đó. Chúng tôi không hiểu rằng ông Hoàng Xuân Hãn vô tình hay hữu ý ghép hai tờ giấy, một chữ Hán, một chữ nôm vào với nhau rồi đem chụp ảnh.

Tai hại nhất là ông Hoàng Xuân Hãn đã nhầm chữ giới và răn ra chữ giới là cõi. Trong cổ văn Trung Hoa không có chữ nữ giới (giới là cõi). Chữ nữ giới này do người Nhật Bản đặt ra sau hồi duy tân, cũng như những danh từ cách mạng, kinh tế và nhiều danh từ khoa học. Hơn nữa, nếu người ta muốn đề tên tác giả hay dịch giả , thì hai chữ tên thường đặt ngay dưới nhan đề Chinh Phụ Ngâm.

Do sự nhận xét ấy, chúng tôi quyết đoán rằng ông Hoàng Xuân Hãn đã nhầm nhiều trong việc tìm tác giả Chinh Phụ Ngâm bản A và đem râu ông nọ cắm cằm bà kia của ông Phan Huy Ích. Chúng tôi cũng cho là nghi vấn chứ chưa dám tin hẳn để mọi người khác là nhầm. Một cái nhầm đã lâu ngày, đã nhiều người mắc, không thể nhất đáp cải chính ngay được.

Cũng như xưa nay ta vẫn nhận cụ Tổ mình là Hùng Vương, về sau có người tìm ra chỗ nhầm ở chữ Hùng với chữ Lạc, biết rõ ràng cụ tổ mình là Lạc Vương chứ không phải Hùng Vương, nhưng vẫn quả quyết giữ thuyết Hùng Vương.

Về tên họ Hai Bà Trưng xưa nay các vị chép sử sách vẫn chép là Trưng Trắc và Trưng Nhị; nhưng có người lại tìm ra chính danh hiệu hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị, vì nhà bà chuyên nghề chăn tằm, trứng con ngài thường gọi là trứng trắc và trứng nhì; nên người nhà đặt tên hai bà theo tiếng gọi thông thường của giới bình dân. Đằng này ông Hoàng Xuân Hãn không bằng chứng cụ thể là quả đoán, tất không tin được. Vậy cuốn Chinh Phụ Ngâm của ông Hoàng Xuân Hãn không có giá trị khi ông võ đoán bản Chinh Phụ Ngâm vẫn được truyền tụng là của ông Phan Huy Ích…”

Ông Bạch Diện đã nhận định rõ ràng; đưa bằng chứng cụ thể, hệ thống hóa vấn đề; như vậy đã cho người đọc nhận đâu là giá trị Chinh Phụ Ngâm bị khảo của Hoàng Xuân Hãn. Đó chỉ là một trong những chứng liệu nhầm lẫn của ông. Nhìn chung văn nghiệp, ông Hoàng Xuân Hãn vẫn có giá trị với Lý Thường Kiệt, Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca; cao nhất là La Sơn Phu Tử và Danh từ khoa học. Ông góp một phần không nhỏ trong ngành biên khảo văn học ở giai đoạn giao thời và hậu chiến sau này.

3. NGUYỄN ĐĂNG THỤC (1909 – 1999)

Sinh năm 1909 ở Nam Định. Thuở nhỏ học ở tỉnh nhà từ năm 1927. Đến 1934 xuất ngoại sang Paris học, đậu kỹ sư hóa học.

Năm 1945 về nước chủ trương tờ báo Duy Nhất ở Nam Định. Cách mạng bùng nổ, ông viết chung cuốn Văn hóa và cách mạng với Đào duy Anh (nhà làm tự điển nổi tiếng bậc nhất, rất công phu trong lịch sử tự điển Việt Nam) Hồ Hữu Tường, Đặng Thái Mai. Ông theo kháng chiến, tản cư ít lâu, rồi trở về thành sớm. Có một thời uy quyền, cánh tay mặt phe Tổng Trấn Bắc Phần, do Pháp đặt hệ thống chính quyền bù nhìn ở đất Tề. Năm 1953, ông chủ trương báo Văn Hóa Tùng Biên. Năm 1954 chủ nhiệm nguyệt san Văn Nghệ Tập San (Sài Gòn) và giữ chức Khoa Trưởng Văn Khoa (Đại học Văn Khoa) nhiều nhiệm kỳ.

Từ Duy Nhất, Văn Hóa Tùng Biên, Văn Nghệ Tập San hay tác phẩm biên khảo của ông đã xuất bản đều chủ trương lập luận:

Tinh thần truyền thống dân tộc (mission mellénaire)

Tổng hợp đạo học và khoa học.

Kết luận về văn hóa Đông Phương (nhất là Trung Hoa và Ấn Độ vẫn là trung tâm văn hóa nhân loại). Tác phẩm đã xuất bản: Văn hóa và cách mạng (viết chung 1945), Tinh thần Khoa học và Đạo học (Hà Nội 1953), Dân tộc tính (Văn hóa vụ xuất bản, Sàigòn 1954), Lịch sử Triết học Đông Phương I và II , và còn đang tiếp tục xuất bản tiếp trọn bộ như in trong mục lục là 7 tập (1956).v.v...

Khái niệm về văn hóa dân tộc, Nguyễn Đăng Thục duy trì khai thác vốn cũ dân tộc, vẫn là điều thiết yếu của tư tưởng nhân sinh quan dân tộc, nói riêng; Đông Phương, nói chung. Với nhân loại, khuynh hướng nhận thức đạo người và đạo Trời, hành động và tri thức, lý trí với tình yêu. Đây là đoạn văn gần như tuyên ngôn Nguyễn Đăng Thục và đồng thuyền. Với nhân sinh quan ấy, ông vẫn đeo đuổi phục vụ cho đến nay:

"...Dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử sống trên giải đất ở giữa hai khu vực lớn của hai dân tộc tối cổ văn minh là Trung Hoa và Ấn Độ. Tiếng Ấn Độ China gần đây các nhà địa lý đặt tên cho giải đất chữ S này không phải chỉ có nghĩa địa lý mà còn có ý nghĩa lịch sử nữa. Về sinh lý thì trong máu người Việt Nam ngày nay có cả giòng máu người phương Bắc tràn xuống lẫn lộn với giòng máu người phương Nam tràn lên. Về tinh thần vì văn minh Trung Hoa có tính cách đại đồng thực tiễn đã ảnh hưởng sâu sa vào văn hóa và xã hội Việt Nam, đồng thời văn minh Ấn Độ có tính cách tâm linh cao siêu đã làm cho nguồn sống nội tâm của cá nhân Việt Nam. Phàm những thời đại cường thịnh trong lịch sử đều là thời mà dân tộc Việt Nam đã thực hiện được thế quân bình thích ứng trong giữa hai tinh thần văn hóa, đã thống nhất được cái tinh túy của hai nguồn sinh lực, hai khuynh hướng đặc biệt của tư tưởng nhân loại là khuynh hướng nhân sinh và khuynh hướng nhận thức đạo người và đạo trời, hành động và trí thức, lý trí với tình yêu. Thời đại mà nhà Trần, dân khí hùng dũng, tinh thần độc lập cực cao, ấy là nhờ trong nước trên dưới đoàn kết lý tưởng duy nhất đã tuần tự kết tinh ở nội giời bằng bao công phu Phật học và Hán học từ Đinh Lý trở về, biến thành một nguồn nội lực của dân tộc vô cùng mãnh liệt và phát tiết ra hành động cương quyết và tự tin. Đấy là chứng minh rõ rệt khi giao thông trên thế giới chưa được giải quyết một cách rộng rãi mà thế giới chỉ là thế giới từng châu, thì dân tộc Việt Nam đối với thời gian và không gian đã thực hiện được nhiệm vụ lịch sử của mình một cách xứng đáng, vì dân tộc ấy tuy bé nhỏ, ở vào một hoàn cảnh địa lý eo hẹp, nhưng một khi đã tìm thấy thế quân bình của mình do tình thế địa lý và lịch sử ngầm định ủy thác, thì nó đã chiến thắng vẻ vang với những thế lực cản trở lớn lao là chừng nào! Cho hay chúng ta không lo về những thế lực cản trở con đường tiến thủ sống còn của ta, mà chúng ta chỉ nên lo lắng trước giai đoạn tiến hóa của thế giới hiện thời: năm châu chằng chịt những mối tương quan về văn hóa, kinh tế, chính trị chúng ta tìm được thế quân bình mới để kết tinh cái tinh thần duy nhất làm nội lực động cơ, cũng như xưa kia Lý Trần tổ tiên chúng ta đã thực hiện thì lo gì không chiến thắng những điều kiện bất lợi nó cản trở…”

Bản tuyên ngôn về tinh thần dân tộc truyền thống của Nguyễn Đình Thục bao gồm đầy đủ: nguyên tắc, tương quan quốc gia, xã hội, thế giới uyên nguyên tiến hóa văn hóa dân tộc. Một Bakounine từng chủ trương panslavisme(62) đại đoàn kết dân tộc giòng giống Slaves để tạo một uy thế thống nhất trước khi hành động, có nguyên tắc và triết thuyết rõ ràng. Đó cũng là một điều muốn phát huy của Nguyễn Đăng Thục, tuy không như Bakounine ở triết thuyết, song đường lối thể hiện giống nhau ở dàn bài thực hiện. Ông chủ trương một thứ giao hòa panthéisme Đông Phương, Tây Phương, và lấy trọng tâm văn hóa tinh túy Đông Phương đi đôi với phương lược hành động khoa học kỹ thuật Tây Phương.

Xét văn thể bản tuyên ngôn về đường lối, như khảo và phê một thuyết nào, căn bản là phải sáng gọn, rành mạch, hệ thống, hành văn, sáng sủa; có thế người đọc mới dễ lĩnh hội. Chúng ta từng thấy một Bertrand Russell (triết gia Anh được Nobel viết cuốn Histoire de la philosophie occidentale (Lịch sử Triết học Tây Phương, Gallimard xuất bản), một Benoit P. Hepner viết về Bakounine; một Auguste Cornu viết về Essai de critique du marxiste (Lý luận về phê bình chủ nghĩa Mác xít). Lối trình bày mạch lạc, hoặc Hồ Thích, Trần Độc Tú, Lý Lập Tam, Lỗ Tấn… đều cùng ý nghĩa ở việc xây dựng triết thuyết. Nguyễn Đăng Thục chưa có lối trình bày mạch lạc, hành văn tối nghĩa, rườm rà; chính lẽ ấy người đọc không dễ dàng lĩnh hội ý tưởng của ông.

Tinh thần Khoa học, Nguyễn Đăng Thục muốn dung hòa Âu Á, qua văn hóa. Và như bản tuyên ngôn, luận đề ấy là phần chính yếu trong cuốn sách này. Bộ Lịch sử Triết học Đông Phương I là Lịch sử Triết Học Trung Hoa (I,II) biên khảo diễn tiến lịch sử triết học, tài sản triết lý qua nhiều khuynh hướng: Khổng Mạnh, Dương Chu, Mặc Tử… để người đọc thấu triệt tổng quát triết Đông.

Hai tập trong bộ sách chưa đủ để nhận xét tổng quát; tuy nhiên với phương pháp và nội dung trình bày (tài liệu ông viết căn cứ vào hai nhà tân triết học Trung Hoa như Phùng Hữu Lan và Hồ Thích) tiến bộ hơn Tinh thần Khoa học và bản tuyên ngôn bảo thủ đăng trên báo Duy Nhất. Phương pháp làm việc của ông nhiều công phu, lý luận, lập trường dựa vào dân tộc truyền thống, hòa hợp nhịp nhàng, văn khảo luận hấp dẫn không kém lối viết triết Bertrand Russell. Từ câu văn dài lê thê, thiếu mạch lạc, dài giòng, tối nghĩa ít có trong Lịch sử Triết học Đông Phương I,II.

Ông là nhà biên khảo triết học chuyên khảo triết Đông Phương với vốn học hỏi uyên thâm. Và nếu một dân tộc phát triển hùng mạnh, dựa trên nhiều khuynh hướng triết học; thì giá trị Nguyễn Đăng Thục đã có. Ông phát huy vốn văn hóa dân tộc so sánh hòa đồng Tây Đông, quân bình xã hội quốc gia, dung hòa tinh túy văn hóa Đông Phương và khoa học kỹ thuật Tây Phương. Qua đời ở Sài Gòn năm 1999.

4. LÊ THANH (1913 – 1944)

Tên thật Nguyễn Văn Thanh. Sinh năm 1913, mất 1944. Viết cho báo Tri Tân của Nguyễn Văn Tố. Tác giả Cuộc phỏng vấn các nhà văn. (Đời mới 1943) Trương Vĩnh Ký (1943), Văn học Việt Nam; đăng trên báo Tri Tân, Thân thế và Văn chương Tú Mỡ (1942), Sóng rợn sông Đà (nói về tư tưởng và thi nghiệp Tản Đà) đăng trên báo Tin Văn của Thái Phỉ (1941-42)... Những sách của ông viết về văn học Việt Nam cũng như phỏng vấn chỉ giá trị ở khía cạnh tài liệu; còn hệ thống viết phiến diện không được như Vũ Ngọc Phan. Một Kiều Thanh Quế cùng ý nghĩa, tuy tay nghề viết lách cao hơn so với Lê Thanh viết Văn học Việt Nam, cũng không bằng lối viết tính sổ văn nghệ ở Ba Mươi Năm Văn Học của Mộc Khuê (Tân Việt, xuất bản 1944). Nhưng không vì thế mà chúng ta có thể quên tài liệu phỏng vấn văn học, ở tuần chiến, xác đáng về tư liệu phong phú của Lê Thanh.

5. KIỀU THANH QUẾ (1914 – 1947)

Ông còn một bút hiệu nữa Tô Kiều Phương viết về Học thuyết Freud (Tân Việt xuất bản), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam (Đời Mới, xuất bản 1943), Phê bình văn học (Tân Việt)...và nhiều báo ký bút hiệu Kiều Thanh Quế đăng trên tạp chí Tri Tân. Nhận định khái quát về tài liệu văn học và phê bình văn học của Kiều Thanh, ông có con mắt nhìn tổng quát cho người đọc thấy biểu nhất lãm diễn tiến văn học Việt Nam. Tuy nhiên tài liệu, lập luận viết chứng tỏ giá trị hơn Lê Thanh, Mộc Khuê. Cuốn Triết Học Freud chưa thể cho người đọc một khái quát, nắm được tư tưởng nhà phân tâm học rõ ràng. Ông viết không theo dàn bài nhất định, tùy hứng, có khi đang nói về tiểu thuyết, bỏ nửa chừng gián đoạn kể tiếp về cuộc đời, công việc làm; chứng tỏ ông chưa hệ thống hóa một cách khoa học. Người đọc sách Freud có thể hiểu qua người viết, như Daniel Lagache với La Pschycanalyse (Phân tâm học) (PUF, loại Que sais je?); nhưng với Kiều Thanh Quế, nói riêng, hay nhà biên khảo tiền chiến khác nói chung, chưa ai viết về vấn đề này khúc triết, dễ hiểu cho người đọc có một khái quát. Kiều Thanh Quế là nhà văn biên khảo giá trị, gốc ở Nam Phần đứng sau Phan Văn Hùm.

Những ngày cuối cùng, ông ẩn mình trong triết thuyết đạo Phật, bằng cách gõ mõ cầu kinh tại gia. Rồi ông bị Pháp bắn chết trong cuộc hành quân sau năm 1945 ở Biên Hòa.

6. DOÃN KẾ THIÊN (1891 – 1965)

Ông còn biệt hiệu Sở Bảo. Tác phẩm đã xuất bản: Hà Nội cũ (1934 đến 1944), Danh nhân Việt Nam (Đời Mới, 1943), Văn phạm Chữ Hán (Mai Lĩnh xuất bản). Cuốn giá trị tiêu biểu cho văn nghiệp là Danh nhân Việt Nam. Ông viết về cuộc đời Trạng Bùng, Nguyễn Văn Giai, Hoàng Sầm, Nguyễn Đình Giản, Võ Duy Thanh, Ngô Thời Nhiệm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trường Tộ. Giá trị cuốn sách như đã bàn trong tiết khái quát về nhà văn biên khảo; có ảnh hưởng lớn lao với thế hệ thanh niên tìm hiểu tinh thần chịu đựng cũng như cuộc đời ngoại hạng danh nhân, để tạo cho một lòng tin dũng tiến. Nói như vậy, giá trị Doãn Kế Thiện đã đạt. Mẫu danh nhân rất cần để huấn luyện cho người hôm nay còn vô danh, ngày mai là anh hùng, một chút máu ngang tàng Lý Thường Kiệt, một chút kiêu sa của kẻ thừa tài bất mãn Cao Bá Quát, một chút dũng cảm chí lớn như Quang Trung, một chút tài hoa văn chương Nguyễn Du, một sức chịu đựng Nguyễn Công Trứ, một sáng kiến viễn ảnh Nguyễn Trường Tộ và v.v… thì hẳn rằng văn hóa văn nghệ, đó là khí giới truyền bá, là gạch nối lịch sử.

7. NHƯỢNG TỐNG (1897 – 1948)

Sinh năm 1897 ở Nam Định, viết báo Thực Nghiệp Dân báo... Còn có bút hiệu Hoàng Kiếm Thu. Tên thật Hoàng Phạm Trân. Có chân trong Việt Nam Quốc Dân Đảng, một trong người đồng lao cộng tác việc chủ trương làm cách mệnh chống Pháp. Ông viết báo, viết văn, dịch sách. Tác phẩm đã xuất bản: Lan và Hữu (1940), Sử Ký Tư Mã Thiên (Tân Việt, 1944, dịch trích diễm), Tây Sương Ký (biên chú), Ngư tiều Vấn đáp dịch với Phan Văn Hùm (nguyên tác Đồ Chiểu), Đại Việt Sử Ký dịch của Ngô Sĩ Liên (Tân Việt) Nguyễn Thái Học (Tân Việt 1949) thơ, Ly Tao dịch thơ Khuất Nguyên, Đỗ Phủ… (Tân Việt 1944), Trang Tử Nam Hoa Kinh (Tân Việt 1945) v.v…

Sử Ký Tư Mã Thiên, cuốn sử ký của sử gia Trung Quốc, xuất thân hoạn quan vì lý do đả phá phong kiến. Ông đã hy sinh cuộc đời chỉ để viết vào thiên sử ký, lập trường sử gia biểu hiện sử, chép lịch sử diễn tiến dân tộc Trung Hoa theo quan niệm biểu hiện, tôn trọng sự thật, không khuất phục thế lực kim tiền, nhỡn quan của người đứng về phe bị thống trị.

Như một thiên-truyện gần mang tư tưởng chống đối phong kiến và lòng phục vụ sử học của Tư Mã Thiên đam mê tột bực. Quách Mạt Nhược đã linh động hóa tiểu sử thành truyện, không hẳn là tiểu sử chính truyện, song ông viết điển hình tiêu biểu một phần nói về tư tưởng, cuộc đời Tư Mã Thiên. Nhượng Tống như đa số nhà văn tiền chiến khi biên dịch một tác phẩm ngoại quốc không làm công việc giới thiệu tư tưởng và cuộc đời, xuất sứ trong giai đoạn lịch sử nào, nên người đọc bỡ ngỡ và không hiểu thêm được tác giả đã đành và nguyên do tại sao người dịch lại làm công việc ấy. Ở những nước văn hóa cao như Pháp chẳng hạn, bất cứ tác phẩm dịch nào ít bỏ sót định luật căn bản ấy. Bây giờ bàn về nghệ thuật dịch Nhượng Tống. Dịch trích diễm, văn thoát, giới thiệu cho độc giả một quan niệm tổng quát về sử học, văn học Trung Hoa, một dân tộc mà chúng ta đã bị đô hộ ngót một nghìn năm, lẽ tất nhiên thâm nhập văn hóa ảnh hưởng mạnh đời sống người Việt Nam. Đọc Sử Ký Tư Mã Thiên, phái tân học ít am hiểu Hán học hiểu đại quan sử học cách xử thế cao nhất Trung Hoa qua bộ môn. Quan niệm nhân sinh hôm nay không thể chối cãi sự thoát ly triết lý Trung Hoa, nếu có, chỉ là vấn đề dung hòa quan niệm sống giữa hai nền văn minh Đông Phương điển hình Trung Hoa và Âu Phương. Nhượng Tống có lối hành văn thoát, dễ hiểu, mạch lạc, sáng sủa. Còn tác phẩm dịch, theo chúng tôi, chưa được mỹ mãn lắm; vì dịch đôi khi là phản, hơn nữa cách dịch thơ của Khuất Nguyên qua Ly Tao thật khó hay để lột được nguyên tác. Tác giả bị giam trong tù ngục, tương tự Cervantès, Dostoievskð. Dịch thơ Đỗ Phủ thì Nhượng Tống cùng ý nghĩa tuyển chọn khi dịch thơ Khuất Nguyên.

Năm 1948, ông bị ám sát ở Hà Nội vì lý do chính trị. Là nhà văn biên khảo có công dịch thuật, nhà cách mệnh yêu nước có công với lịch sử Việt Nam. (Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930). Văn học Việt Nam cũng chịu ơn ông, bởi thêm những dịch phẩm vô cùng giá trị vào buổi đầu thế kỷ.


Tiết 4

KẾT LUẬN VỀ NHÀ VĂN BIÊN KHẢO, PHÊ BÌNH

Nhìn vào lịch trình biên khảo tiền chiến, phải công nhận rằng, nhà phê bình văn học, và biên khảo rất ít, và tác phẩm thực giá trị không nhiều cho lắm. Có lẽ một phần khuyết điểm lớn, nhà văn biên khảo nói riêng, văn nghệ sĩ Việt Nam, ít có cơ hội phát triển loại sách khó có độc giả này. Ngoài ra, còn một số nhà biên khảo có thái độ tự cao, tự phụ, ếch ngồi đáy giếng.

Đành rằng có Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Hãn, Phạm Huy Thông, Phan Văn Hùm, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Đức Quỳnh (Hàn Thuyên); nhưng ít quá, đó là chúng ta nói về phe tân học từ giai đoạn 1930 trở đi. Còn nhà uyên thâm Hán học như Nhượng Tống. Và Vũ Ngọc Phan chịu nghiên cứu, học hỏi, có công với văn học sử Việt Nam qua bộ phê bình Nhà Văn Hiện Đại. Nhận thấy rằng giá trị Hoàng Xuân Hãn, hay Trần Đức Thảo (Hiện tượng luận và Chủ Nghĩa Mác) so sánh giá trị đúng xác, ai có công hơn trong văn học sử Việt Nam thì đa số không phải là Trần Đức Thảo vv... Trương Tửu có công lớn với văn học Việt Nam qua những biên khảo, dù là nhà văn và nhà biên khảo ở trong nước tự học.

Đành rằng làm thơ phải thiên bẩm, một thi tính không cần căn bản học vấn cao vẫn có thể là thi sĩ nổi tiếng, thi bá. Verlaine của Pháp lên chín tuổi đã bài thơ mang hình ảnh xã hội, giáo đường, tình yêu, cuộc đời; như người có vốn sống kinh nghiệm. Nào có ai nghĩ được rằng tài năng có từ thuở tác giả còn là cậu bé không? Nguyễn Bính hay Chế Lan Viên, học vấn có là bao; nhưng về thi nghiệp của họ, với khởi điểm bột phát thiên bẩm thi tính, họ bắt đầu từ năm lên chín và mười hai.

Nhưng là nhà văn biên khảo, phê bình văn học, không những có tài, năng khiếu, khả năng viết lại cần vốn học hỏi. Cũng không cho rằng kẻ học cao có thể làm văn học tốt, bởi lẽ sự học hỏi ở nhà trường như hiểu biết trường đời để tạo thành văn phẩm rất khác nhau. Ehrenbourg văn sĩ có danh của Nga được Staline quý hơn sư đoàn thiện chiến, hẳn lãnh tụ này biết được sức mạnh tinh thần ngàn cân trong văn học. Và đoàn kỹ sư tâm hồn được đặt ra từ đấy. Hoặc Maxime Gorki nghèo nàn từ thuở mới ra đời, bao nhiêu phen va chạm oan nghiệt, xã hội thối nát cũ Nga Hoàng (Tsar), cơm không đủ ăn, làm phu đắp đường không đủ sống, đi bán hàng thì ăn cắp nến của chủ để đọc sách ban đêm kiếm tiền vào đại học Kazan (Xin nói rõ, chương trình đại học ngoại quốc mở rộng, không như ở các nước bị thống trị hoặc nước mới tiến). Đại học đường cuộc đời giúp Maxime Gorki trở thành văn hào trên thế giới. Một Victor Hugo, Émile Zola, Anatole France chỉ có sức học tú tài, thi không bao giờ đậu, nhưng là văn sĩ Pháp tài danh. Anatole France mở tự điển ra học trước khi ăn cơm, nói chung thì nên hiểu rằng, nhà văn thiên tài vẫn phải học liên tục. Một trí thức có căn bản học hỏi không ngừng cũng khó trở thành nhà văn; nếu không thiên bẩm. Sự khác nhau đó là năng khiếu và tài năng.

Về phê bình, ngoài Phan Khôi, Trương Chính, Hoài Thanh, Thiếu Sơn v.v… thì Vũ Ngọc Phan là nhà phê bình vững chãi nhất; biển học mênh mông; vốn sống chỉ là thước để đo. Vì thế đã có lần Kiều Thanh Quế nhắc lỗi nhỏ về Vũ Ngọc Phan không đọc hết các sách, mà vẫn phải phê bình như là biết hết:

“…Lối phê bình thiếu sáng tác, ta có thể bảo lối phê bình của Vũ Ngọc Phan đã dùng viết mấy cuốn Nhà văn hiện đại. Ví dụ như việc phê bình bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim, họ Vũ chỉ mất công lặp lại lời phê bình của Phan Khôi cùng những lời đáp lại của Trần Trong Kim thôi ...(59) ”

Ngoài ra, một nước bị thống trị như chúng ta, vào thời Pháp, một Hàn Thuyên, qua những tác phẩm khảo cứu có tinh thần hướng thượng, sức học uyên bác, chứng tỏ là họ là nhà văn chịu học hỏi. Trương Tửu là điển hình trong sự tự học này. Ngoài ra, Nguyễn Đức Quỳnh, Phạm Ngọc Khuê, Đặng Thái Mai, Lương Đức Thiệp... vẫn chịu học hỏi cả khi nghiên cứu; sau nữa phải kể đến nhà biên khảo Lê Văn Siêu(60) , ban đầu chỉ là một thứ ouvrier (thợ công nghiệp).

Trước 1930, Phạm Quỳnh là học giả có tiếng, có công trong văn học sử Việt Nam chỉ bắt đầu với sức học Brevet Ier cycle (bằng Thành chung); nhưng sự hiểu biết uyên bác, tự học tạo vốn học siêu đẳng, viết và nói tiếng Pháp, diễn thuyết ở Paris cho chúng ta thêm nhận định: sự học cần cù không ngừng phát triển với khối óc thiên bẩm.

Tình trạng biên khảo tiền chiến với sự phát triển tác phẩm biên khảo giá trị, dịch phẩm quý giá, một khi nhìn lên như Pháp từng dịch hàng triệu cuốn sách giá trị, qua nhiều thứ tiếng, qua nhiều ngành; thì quyết định ở nhà văn sau này ở hai điểm: có khối óc sáng tác, thiên bẩm văn thi tính và tự mình phải khai triển vốn căn bản hiểu biết. Khổ công cũng là một sự kiện quan trọng trong việc phát huy nghề nghiệp.

Văn hóa phát triển, thì đời sống tinh thần, vật chất, sẽ làm chúng ta rạng rỡ với thế giới, với quốc gia có tên trên bản đồ chưa bao giờ biết và nghe đến hai tiếng Việt Nam.



CÒN TIẾP ...

Trở lại : LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 12





© CẤM ĐĂNG TẢI LẠI NẾU KHÔNG CÓ SỰ ĐỒNG Ý CỦA TÁC GIẢ VÀ NEWVIETART .



TRANG CHÍNH TRANG THƠ ĐOẢN THIÊN TRUYỆN NGẮN ÂM NHẠC