TÁC GIẢ
TÁC PHẨM




. Tên thật Đỗ Mạnh Tường.

. Sinh ngày 10-7-1932 tại Yên Bái
trong giấy tờ tuỳ thân 1936.

. Khởi sự viết văn cuối 1952.

. Truyện ngắn đầu tiên Đời học sinh ký Tương Huyền đăng trên nhật báo Tia sáng ở Hà Nội (17-11-1952), Ngô Vân, Chủ nhiệm).

. Truyện dài đầu tiên in ở Sài Gòn: Tình Sơn Nữ (1954).

. Tổng số trên 50 tác phẩm đủ thể loại: thơ, truyện, phê bình, khảo luận, dịch thuật.

Từ 1952, ở Hà Nội cộng tác với các nhật báo Tia sáng, Giang Sơn, tạp chí Quê hương, phóng viên các báo Thân Dân (Nguyễn Thế Truyền), Dân chủ (Vũ Ngọc Các) (Hà Nội: 1952-1954). Chủ nhiệm tuần báo Mạch Sống, Dương Hà chủ bút - báo chỉ xuất bản được một số rồi tự đình bản vào 1955 ở Sài Gòn.

. Cộng tác viên, tạp chí ở Sài Gòn: Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Văn Nghệ Tập San, Văn Hoá Á Châu, Tân Dân, Tạp chí Sống (Ngô Trọng Hiếu), Sinh Lực, Đời, Nhật Báo Sống, Tuần báo Đời (Chu Tử), Trình Bầy, Tiền Tuyến, Sóng Thần (Uyên Thao), Lý Tưởng,v.v… -

Đăng truyện ngắn Les Immondices dans la banlieue trên báo Le Monde Diplomatique (Paris 12-1970)

Đăng thơ trên tạp chí Tenggara, Kuala Lumpur - Malaysia) từ 1968-1972- sau in lại thành tập: Asian Morning, Western Music (Sài Gòn 1971, tựa Gs Lloyd Fernando).





BÚT KÝ & TRUYỆN


THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 1/2

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E -mail 2/2

CHÀNG VĂN SĨ ĐẤT TỀ

ĐÊM DÀI TÌNH ÁI

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 3

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA -Chương 1 Kỳ 1

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 1 Kỳ 2

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 2

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 3

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 2/2

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 3

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 3 tiếp theo

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 4

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 4

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 5

CON CHÓ LIÊM SỈ

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 6

HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA - Chương 5

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 7

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 8

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 9

THƯ VIẾT Ở SÀIGÒN - E-mail 10 - KẾT





BIÊN KHẢO


LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 1

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 2

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 3

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 4

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 5

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 6

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 7

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 8

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 9

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 10

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 11

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 12

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 13

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 14

LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 15






















THAY LỜI DẪN

Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..

Newvietart xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :

a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)

b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).

c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc, sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)

d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.." (Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).

e) Le Journal d'Extrême Orient (Saigon, 3 Décembre 1959)" Lược sử văn nghệ Việt nam-Hisotire de la littérature vietnamienne". Histoire sommaire de la littérature vietnamienne, òu l'auteur passe en revue les écrivains d'avant guerre 1930-1945. Cette oeuvre est tirée sur ronéo avec une tirage limitée. Fruit de minuitieuses recherches et d'une riche documentation donnée une vue d'ensemble des diverses époques et tendances des écrivains, des poètes du Vietnam, de leurs oeuvres, d'une littérature riche de plusieurs millénaires suivant le cours de l'Histoire. C'est une synthèse remarquablement coordonné annotée parle critique éminent qu'est ThếPhong qui l'achevée dans les derniers jours de Juin 1956

(đã in ở cuối sách "LSVNVN-Nhà văn tiền chiến 1930-1945 của ThếPhong, NXB Vàng Son Saigon 1974)...

Từ Vũ và Newvietart chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã cho phép đăng tải toàn bộ tập Lược Sử Văn Nghệ, tài liệu không thể thiếu cho những người yêu chuộng văn chương nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt cho những người muốn khách quan sưu tra sử liệu .





VÀI DÒNG TÂM SỰ NGƯỜI VIẾT SÁCH

T rước hết cảm ơn bậc đàn anh bước trước: Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh – Hoài Chân ... (chẳng là gần với tài liệu văn học tham khảo, cũng như so sánh).

Viết sách biên khảo hay phê bình, giá trị nhiều hay kém có thể nằm trong vài ý kiến dưới đây: Lập trường người viết phải có trước khi tìm kiếm tài liệu. Ấy là đã phải kể tới kiến thức, học và đọc; khả năng và tâm hồn văn nghệ nhạy cảm của người viết phê bình.

Lại cần kinh nghiệm, nhỡn quan nhìn, phải được chế biến theo lập luận người viết càng nhuyễn, sách càng phong phú. Không thể coi sách tương tự như cours nhà trường, làm thành gọi là biên khảo, phê bình văn học. Cũng như étude, non-fiction, fascicule, étude critique sur critique phân minh rõ ràng.

Tài liệu dồi dào, nhưng tài liệu nào chưa đọc, không nên bao biện. Người viết không định ý, lập luận; hẳn tài liệu phong phú dồi dào đi nữa; cuối cùng người viết chết theo với tài liệu sưu khảo được. Nhớ tới Nguyễn Hiến Lê trong một sách biên khảo bàn về tài liệu, nhất là tìm tài liệu văn học, sử học Việt Nam khó gấp bội phần khi sưu tập tài liệu tương tự ở nước ngoài. Ý kiến thật xác đáng. Nước ta triền miên khói lửa, và tầm mức thẩm định giá trị tài liệu văn học chưa được sử dụng đúng mức, công bằng.

Cộng đời sống thấp kém, ít thời giờ đọc sách, mua sách, bảo tồn sách, nên tủ sách văn học Việt Nam cần cho người viết sử dụng còn ở tình trạng rất thiếu thốn.

Khi viết bộ sách này, khích lệ tôi nhiều nhất phải kể tới một người: đó là anh Nguyễn Đức Quỳnh. Ông nhắn nhủ tôi rằng: “tài liệu nhiều chưa chắc đã là một yếu tố thành công, còn phải dám làm, dám nhận trách nhiệm”.

Đôi khi, chính kẻ dám làm lại liều lĩnh và dám biết mình ngu. Như vậy, chắc chắn tôi biết trách nhiệm khi viết sách. Cảm ơn một lần nữa nhà văn lão thành Nguyễn Đức Quỳnh, ông bạn văn tiền chiến vong niên. Nữa, cho tôi xin cảm ơn thêm vài tấm áo vải lao động: như anh chị Hai Nụ ở Xóm Chùa (Tân Định) làm nghề thợ thêu. Anh chị nuôi sống tôi hai năm trời: cơm và nhà ở. Nhà thuê vào năm viết bộ sách là một trăm năm mươi đồng. Tiền cơm bốn trăm đồng. Chưa hết, ông già Lịch bán thuốc lá, cũng ở đây; cho tôi chịu khoảng hai ngàn đồng tiền thuốc lá. Thuốc lá Ruby khoảng sáu đồng một bao. Sáu tháng liền, tôi chỉ đi ra tới ngõ; xa hơn là 147B Trần Quang Khải (Sàigòn 1) tới tiệm cho thuê sách Đức Hưng. Nơi này đủ gần hết tác phẩm tiền chiến, giấy dó Hàn Thuyên, mướn đem về đọc để làm tài liệu viết. Một người bạn nữa anh Lung cũng ở Xóm Chùa ngập nước, có một tủ sách khá lớn. Anh cho mượn và tôi sử dụng một cách sở hữu chủ. Anh từ miền Bắc vào Nam lâu, có viết báo tài tử, một người thật chân tình. Phải chăng chân tình này làm tôi cảm động, khi nghe kể đoạn đời anh tham gia kháng chiến ở Nam Bộ bị Pháp cầm tù. Đời tù đầy thêm kinh nghiệm sống, đời quất ngọn roi phũ phàng bao nhiêu, nạn nhân chịu nổi hờn đau sẽ sống lâu hơn; sau thì người ấy sẽ được liệt vào bậc tốt nhất xã hội trên mọi phương diện.Và một bạn học cũ Hà Nội : Tạ Văn Tài đạp xe đạp thăm tôi để khích lệ - trước khi anh đậu hai thủ khoa Văn chương và Luật khoa Sài Gòn rồi sang Mỹ du học.

THẾ PHONG





BÀI THỨ 15

Tiết 2

TRUYỆN ĐIỂN HÌNH - HOÀI VỌNG DĨ VÃNG

NGÔ TẤT TỐ

(1892 – 1954)

Tiểu Sử.

Sinh năm 1892 trong một gia đình nho giáo nghèo nàn ở Bắc Ninh. Là nhà nho học, nhưng chịu học hỏi Tây học. Ông viết truyện, biên khảo, dịch thuật, nói về sáng tác điển hình sự nghiệp văn chương là Lều Chõng. Trong kháng chiến ông bắt đầu chuyển sang viết loại tân truyện (nouvelles) hình tượng mới, song hành với bối cảnh xã hội chuyển đổi. Ông qua đời vào 1954 ở Hà Nội sau 40 năm phục vụ văn chương. Tác phẩm và khuynh hướng. Việc làng (1939), Tắt đèn (1939), Lều chõng (1941), Trần Trọng Kim (1940), Văn học Việt Nam thời Trần Lý (1943), Thi văn Bình chú (Tân Dân 1941), Đường Thi (Tân Dân 1940), Thơ và Tình (Mai Lĩnh 1940) v.v... Sau 1950 ở Hà Nội, NXB Thế Giới tái bản sách này với nhan đề Tình sử (1957), Lão Tử (Mai Lĩnh xb 1942). Sách của ông do Mai Lĩnh xuất bản hầu hết cùng với NXB Tân Dân.

Ông viết hai loại văn chính; biên khảo văn học và sáng tác. Thi văn Bình chú hoặc Mặc Tử, Lão Tử, Văn học Việt Nam là những sách nhiều tài liệu khảo cứu công phu vì ông sẵn vốn nho học uyên bác. Loại sách này giúp ích cho phái tân học muốn tìm hiểu triết gia Đông Phương đa số Trung Quốc. Nếu Nhượng Tống có công bồi đắp văn học phong phú về sử liệu Trung Hoa; thì Ngô Tất Tố cùng ý nghĩa với việc khảo về triết Đông. Phân tích văn nghiệp căn cứ Lều Chõng.

Lều Chõng là cuốn truyện hoài vọng dĩ vãng, một dĩ vãng vàng son của thế hệ nho sĩ qua đi, hình ảnh đặc sắc khoa thi cuối cùng. Nếu Nguyễn Tuân chấm dứt đời hoài cảm nhà nho chán chường với thời đại mới trong Vang bóng một thời, thì Ngô Tất Tố chấm dứt hình ảnh cụ Cử, cậu Khóa trong túp lều chõng thế hệ Khổng Mạnh, Nho học phồn thịnh lần chót trong Lều Chõng.

Trong cuộc kháng chiến, Ngô Tất Tố là nhà văn của bình cũ rượu mới. Với lối văn sáng sủa, hấp dẫn, quan sát tận tường, rung cảm phong phú; ông hòa mình vào sinh hoạt chung dân tản cư chống Pháp xâm lăng lần thứ hai ở cửa ngõ Hải Phòng sau ngày 19-12-1946. Nào là cảnh máy bay địch dội bom vào đồng bào họp chợ ở miền núi buổi sớm, Ngô Tất Tố ghi lại từng hình tượng nho nhỏ lẫn trao đổi buôn bán hàng hóa buổi chợ miền trung du. Tiếng lợn, tiếng gà gáy, tất cả âm thanh hình ảnh, mà chúng ta muốn có khái niệm bằng cảm giác về cuộc sống nhân chứng thời đại, phải đọc và tìm lại những hình tượng ấy trong Buổi Chợ Trung Du. Cho trích dẫn tân truyện ấy dưới đây, cũng như Gió Lào của Nguyễn Tuân, vì đó là áng văn tuyệt tác mang nhiều nếp sống mới thời kháng chiến.

Sự nghiệp Ngô Tất Tố qua Lều Chõng và nhiều sách biên khảo phong phú tư liệu, công phu.

Kết luận.

Bình diện văn nghệ tiền chiến khi bàn nó về tiểu thuyết phóng sự hoài vọng dĩ vãng, không nhà văn nào trội hơn Nguyễn Tuân và Ngô Tất Tố. Nguyễn Tuân tả cảnh chán chường nho sĩ tiêu dao tuế nguyệt, mang trong mình lý tưởng, và nay lý tưởng bị tổn thương rồi, mất đi. Một cụ Cử Hai, một Cụ Hổ, thầy địa lý điển hình lớp nho sĩ chán chường ấy. Với Ngô Tất Tố, chúng ta tìm thấy hình ảnh cuộc thi sử trường ốc. Ngô Tất Tố hơn Chu Thiên ở điểm, ông biết lồng một tập hợp vào sinh hoạt có tình tiết, một xã hội sống trong văn chương; còn Chu Thiên chỉ chép đúng ảnh hình lượm lặt được để trở thành một thiên hồi ký kể truyện cũ.

Chúng ta không còn được chứng kiến cảnh sống nho phong nữa: Lều chõng, Vang bóng một thời; cũng như một Đi tìm thời gian đã mất của nhà văn Pháp Marcel Proust.

Trích văn:

BUỔI CHỢ TRUNG DU

Mặt trời cuối tiết thu nhọc nhằn chọc thủng màn sương, lù lù nhô lên ngàn cây trên dẫn đồi núi lẹt xẹt. Bầu trời dần dần tươi sáng. Tất cả thung lũng đều biến màu vàng. Trước cơn gió hiu hiu, sóng vàng cuồn cuộn nổi trong đồng ruộng. Hương vị thôn quê, đầy vẻ quyến rũ ngọt ngào trong mùa lúa chín.

Từ các ấp trại, làng xóm, từ các túp nhà linh tinh trên sườn đồi, người và người gồng gánh thúng mủng, và bị quai, tay nải và ba lô nữa, lũ dài lũ ngắn lần lượt dồn lên mấy con đường lớn. Vai kĩu kịt tay vung vẩy, bàn chân thoăn thoắt. Tiếng lợn eng éc, tiếng gà chích chích, tiếng vịt cạc cạc, tiếng người nói chuyện léo xéo. Thỉnh thoảng lại điểm những tiếng ăng ẳng của con chó bị lôi sau sợi xích sắt, mắt buồn rầu sợ sệt, y như những tên Việt Gian bị giải đi đường. Sương tan, nắng rõ. Bóng người lần lần theo các thứ tiếng, tiến đến khu rừng theo mặt trái đồi. Trong lúc tích cực đề phòng cuộc tấn công của giặc, bao nhiêu phố xá đều triệt để tản cư, người ta cũng cần có chỗ tụ họp trao đổi buôn bán.

Không có mệnh lệnh, cũng chẳng ai hẹn ước với ai, nhưng khác hẳn nhiều cuộc khai hội, ai cũng đi rất đúng giờ. Khoảng bẩy giờ sáng trên đồi đã đông nghìn nghịt. Chợ họp sớm, để tránh sự khủng bố dã man của những chiếc Pít phai(66) hung bạo.

Mầu nâu, mầu chàm, mầu vàng ca ki các thứ quần áo trà trộn dưới bóng cây. Chỉ thiếu quần trắng phất phơ và áo tím, áo xanh sặc sỡ.

Không ai nói to, cũng không ai nói nhiều. Những luồng phát âm của hàng nghìn cái miệng đủ làm cả khu rừng ầm ầm.

Nứa và nứa, củi và củi. Kế bên vô số bó củi, hoặc đứng, hoặc nằm, vô số bó nứa và củi chiếm xa một giải cổng chợ. Thành phố đã san thành tục mọc lên. Sự nghiệp đi bộ càng phát triển, hàng quà, hàng bánh càng khuếch trương, nứa củi là những thứ cần dùng của thời đại. Bởi vì nó là vật dụng trọng yếu của ăn và ở.

“Hôm nay ít củi ít nứa” người ta nói thế. Là vì mùa gặt đã bắt đầu, dân nứa, dân củi phần nhiều biến thành thợ gặt lúa còn đắt công hơn đi lấy củi nứa.

Bên cung ít hơn bên cầu hàng hóa tự nhiên lên giá. Các ông bán củi bán nứa tha hồ làm cao bán bóp và tha hồ chủng chẳng với khách mua.

Dù sao cơ nữa có củi mà mua, giá củi đắt như vỏ quế mà cũng không có mà mua. Giặc Pháp luôn luôn huy động từng đợt cơ khí kéo đến các làng gần chúng, gia đình, gia chùa, nhà người ta, chở về để đun và đốt lò máy. Đoạn tuyệt nứa củi, cũng đủ cho chúng điêu đứng.

Lồng vuông, lồng tròn, lồng cao, lồng thấp, lồng trắng hồng, lồng trái vải, lồng quay vành cót lớn bằng cái nong. Khu hàng gà vịt đủ các kiểu lồng, nhiều thứ trung châu không có. Chúng nó kề lưng nhau, giáp vách nhau, gối lên nhau, chồng lên nhau, sắp thành hai dẫy thườn thượt. Vậy mà vẫn còn là ngắn, trước kia vào khoảng tháng ba, tháng tư, cũng ở chỗ này, trên là trời, dưới là gà vịt. Trong đó vịt chiếm đến chín phần mười. Vịt bọc trứng, vịt thụt thóc, vịt đổ chéo cánh… không thiếu sót một hàng nào. Nếu cứ đem đầu mà tính, số vịt phải nhiều gấp hai ba số người trong chợ. Vịt tuy nhiều, bán rất chạy và giá vẫn cao, bảy đồng một con vịt bọc trứng, vịt đẻ một đôi sáu chục đồng. Hồi ấy nuôi vịt phát tài như đi buôn lậu, cho nên vùng này đã nuôi vịt. Trong ao, trong sông, trong ruộng, trong ấp trại, không có chỗ nào là không có vịt. Một người nông dân đã gọi là loạn vịt, và rất lo cho sự sống của người. Anh ta cũng có nuôi vịt. Theo con số của anh ấy đã định, thì số thóc một ngày nuôi chăn vịt đẻ trứng làm ra gạo, có thể nuôi đủ mười người ăn. Các hàng vịt khác, tuy không ăn tợn đến thế, nhưng mỗi ngày, một vùng nuôi hàng triệu vịt cũng phải hao hụt bao nhiêu tấn thóc. “Lương thực bị vịt chia sẻ như vậy, chỉ trong mấy tháng người ta sẽ bị đói lây. Anh ta nói vậy”. Mới nghe tiếng như có lý, nhất là người nông phu lại biết lo xa như vậy nhiều người dễ tin là đúng. Nhưng thời gian đã chứng thực. Sự lo của anh chỉ là lo trời đổ. Hiện nay loạn vịt đã chấm dứt mấy tháng vừa qua, giá gạo vẫn trung bình, người vẫn không ai bị đói. Những nhà nuôi vịt đều nhăn như bị. Có người lỗ vốn mấy vạn đồng. Phiên này, vịt chợ vẫn rẻ, mấy hàng vịt còn chỉ ngồi rầu rầu nhìn nhau mà chẳng ma nào hỏi đến.

Đỉnh đồi trung tâm của chợ là khu hàng vải, hàng xén. Đây là hai dẫy lều mới theo hình thước thợ quắp lấy ngọn đồi. Các bà các cô hàng vải hầu hết là những người đường xuôi, nhưng không phải người Hà Nội, vì lúc bán hàng, đều không có cái giọng của các bà các cô Hà Nội. Trừ những thú xanh đỏ lòe loẹt, các thức cần thiết cho dân quê đều không thiếu mấy, chéo go, láng thâm, dường bâu, sồi thắm, sồi mộc, vải nâu, vải trắng, vải màu chàm... gì cũng có. Tuy là rét, mưa sắp đến, khách mua cũng không lấy gì làm đông. Thế nhưng, giá hàng vẫn cao vọt. Nhất là giá bông. Một cái áo bông cộc, cân lên chưa đầy lạng rưỡi người ta phải chuốc đến sáu chục đồng. Điều đó như muốn tố cáo nạn khan bông của địa phương này. Thật vậy, ở vùng ấy có khi đi hai ngày đường không gặp một cây bông nào. Các nhà canh nông miền này hình như thâm thù loài bông không muốn cho nó nẩy nở.

Quang cảnh hàng xén không được sầm uất như hàng vải. Giang sơn của mỗi gian hàng chỉ bằng chiếc chiếu. Đó là chưa kể nhừng hàng bày mẹt ngồi ở ven đường. Tuy thế cần mua thức gì vẫn có đủ thứ ấy, nếu không mua xa xỉ phẩm. Hỏi các thứ tạp hóa thứ nào cũng giữ giá bình thường, riêng có giấy, bút chì đắt thậm, bút chì hạng bét mỗi cây sáu đồng, giấy tây hạng vừa ba mươi đồng một tập. Một bà nhà quê vừa cởi ruột tượng vừa than: “Bán một gánh thóc, mua được một cái bút và mấy tờ giấy, còn thừa vài đồng đủ mua quà cho con. Thế là sào lúa đi đứt”. Kể cũng ái ngại, song cũng đáng mừng thầm. Đổi thóc gạo lấy i tờ nhà nông trước đâu có thế!

Gạo cũng như thóc dồn cả lại cho khu chợ dưới. Đó là sản phẩm chính quy của hạt này. Thị trường không rộng lắm. Người ta bán cũng thừa, nhưng giá thóc gạo xuống như đổ tường. Từ phiên trước đến nay, mỗi gánh sụt hẳn mười lăm đồng bạc. Là vì lúa sớm đã gặt, trừ một số ít người tản cư, ít nhà đong gạo ăn, cho nên người bán tuy ít, vẫn là nhiều hơn người mua. Những bà hàng thóc hàng gạo đều ngồi rời rợi trong đôi quang thúng, thấy ai đi qua cũng mời. Bà nào may mắn được chạy tay, lúc đếm tiền, nét mặt tần ngần như người mất cắp. Thóc gạo hạ, công nhật vẫn bảy tám đồng một ngày, nhà nông thật khóc dở mếu dở.

Mía không phải mía, củi không phải củi. Người ta bán những cái gì mông mốc, đo đỏ, vàng, chặt đoạn ngắn như tấm mía, bó lại từng bó lớn bằng cái thỉnh, nó nằm, bó đứng ngổn nganh chật cả gian hàng. “Thưa ông em bán vỏ ăn trầu”. Và hàng vừa nói vừa mỉm cười: “Đây là vỏ cáo, đây là vỏ triếu, đây là vỏ quai hòm, kia là vỏ mâu, vỏ xen, vỏ khoai, vỏ chay, cỏ quạnh”. Sau khi giới thiệu khắp lượt bà hàng tiếp: “Em cũng còn thiếu vài thứ vỏ nữa. Nếu muốn buôn đủ mặt hàng cũng phải to vốn lắm, mỗi bó vỏ này, vốn mua đều phải từ bốn chục trở ra”.

Khu vực hàng vỏ khá rộng. Lều nào lều ấy hàng hóa đều xếp la liệt y như những xuồng củi nhỏ. Tiếp đó, khu hàng là trầu và hàng cau tươi cũng kéo dài hai dẫy thẳng dăng, hàng nào cũng đầy ngồn ngộn. Thế mà phiên nào cũng vậy, tan chợ là hết veo. Thì ra những bộ răng đen của các bà, các cô vùng này, mỗi phiên chợ phải nhai đến mấy tấn trầu vỏ. Cán bộ phu vận cũng như cán bộ đời sống mới còn là khó với anh em chú Tân Lang.

Kẻng, kẻng, kẻng!

Kẻng, kẻng, kẻng!

Tà vẹt đường sắt giật giọng đánh ba tiếng một. Các chợ cuống quít lộn xộn, chen nhau, đẩy xéo lên chân nhau, ngã xấp, ngã ngửa. Có người bỏ cả quanh gánh, có người đổ hết tương mắm. Chạy ra hầm, chạy ra chân đồi, chạy đến bờ ruộng. Núp vào góc lúa, vào chân gò, nằm la liệt, nằm ngang nằm dọc. Nhiều người run cầm cập. Như đám lá khô trước cơn bão lớn. Chợ sạch ngoét không còn người nào. Thúng mủng, nồi niêu bỏ lổng chổng khắp nơi. Tiếng động cơ mỗi lúc một lớn. Hai chiếc đa-kô-ta(67) bay đến chợ trên rồi từ từ bay qua chợ.

“Máy bay tiếp tế”.

Một hồi tà vẹt báo yên chưa dứt, người ở các ngả tới tấp chạy về, tất cả đi tìm đồ đạc của mình lúc nãy bỏ lại trong chợ. Những bà hàng vải hàng xén lóp ngóp từ dưới hầm trong lều nhỏ lên giống như lũ quỷ sứ ở trong động chui ra.

Chợ cũng vãn, ai mua đã mua, ai bán đã bán rồi. Người ta đã tản mác ra về. Các bà cụ già vừa đi vừa nguyền rủa: “Cha con mẹ nó, chợ búa người ta mua bán với nhau, việc gì nó cũng bắn, ném bom” Tiếng chửi theo các toán người ra khỏi chợ, rồi chia đi các ngả thung lũng.

NGÔ TẤT TỐ

(Trích Tập văn Cách mạng và Kháng chiến)

Tiết 3

TIỂU THUYẾT TÌNH CẢM TIẾN BỘ

THỤY AN HOÀNG DÂN

(1916 – 1981).

Tiểu Sử.

Tên thật Lưu Thị Yến. Sinh năm 1916 ở Hà Nội. Chủ trương báo Đàn Bà Mới từ năm 1939 ở Sài Gòn. Từ năm 1939 – 1945 quản lý báo Đàn Bà ở Hà Nội, năm 1942 in truyện dài và nhiều truyện ngắn.

Tác phẩm và khuynh hướng.

Tác phẩm xuất bản như: Một linh hồn (Bốn Phương xb), Vợ chồng (Phạm Văn Tươi xb), Bốn mớ tóc (Bốn Phương xb) và nhiều truyện ngắn đăng rải rác trên tuần báo, tạp chí. Viết loại văn tình cảm tiến bộ, phô bày cuộc sống phụ nữ cần đổi mới. Điển hình khuynh hướng này là cuốn Một linh hồn. Giá trị văn nghiệp nhà văn nữ giới nổi tiếng tiền chiến, vẫn là Một linh hồn của Thụy – An – Hoàng – Dân.

Phân tích tác phẩm chính.

Một linh hồn là cuốn tiểu thuyết tâm tình mang nhiều vết tích thời tiền chiến. Truyện gồm hai nhân vật chính: Di và Vân. Mẹ Vân là gái giang hồ. Cha mẹ Di thuộc gia đình quan lại trong xã hội. Di và Vân quen nhau vào buổi đi nghỉ mát Vũng Tàu. Di là cháu bà phước quen với bà phước trông nom ký túc xá của Vân. Di sang Pháp học, hai năm sau trở về, cùng Vân trở về Bắc thăm gia đình Vân.

Buổi gặp gỡ đầu tiên giữa mẹ Vân và Di, mẹ Vân biết Di yêu Vân tha thiết. Bà nhắc nhở Di đậu cử nhân luật rồi, liệu có muốn bổ đi tri huyện thì bà giới thiệu. Di từ chối, chính ý kiến này Di không biết rằng chàng đã làm phật ý Thanh (mẹ Vân). Thanh tổ chức tiệc mời khách sang đến dự buổi ra mắt Vân ở Sài Gòn về Hà Nội. Trong số khách đến, có Phủ Tịch là nhân tình của Thanh. Thanh muốn rằng Vân sẽ thay thế Thanh làm nhân tình Phủ Tịch, để hy vọng làm vợ lẽ Tịch. Phủ Tịch rất giàu, Thanh sẽ có tiền trả nợ để khỏi bị tịch thu nhà cửa.

Nhưng Vân không bằng lòng, nàng vẫn yêu Di tha thiết hơn. Qua nhiều mánh khóe của Thanh, Vân vì thương mẹ mà hy sinh bằng lòng lấy lẽ Phủ Tịch. Ngày cưới Vân, may mắn ở sự sắp đặt của vợ cả Phủ Tịch biết trước nên phá. Vợ Phủ Tịch dẹp được ý kiến để chồng lấy Vân làm vợ hai tại trận, và vợ Phủ Tịch cho Vân biết rõ âm mưu mẹ Vân hại đời nàng… Thanh oán Vân đối xử với con tàn tệ. Sau cùng, Phủ Tịch thất bại, vì ông cụ của Phủ Tịch ra điều kiện: nếu không bỏ Thanh, người đã làm hại ông Huyện Hà, anh của Di, thì rồi Tịch sẽ lâm vào hoàn cảnh bi đát; ông cụ sẽ tố cáo với Thống sứ cách chức. Tịch đã lạm tiền công quỹ. Thanh bị tịch thu nhà và dọn về ngoại ô ở. Nhưng Thanh luôn có ý nghĩ đưa Vân vào con đường trụy lạc, vì Thanh muốn như thế. Nhưng Vân, người con gái lấy sự trong trắng và ngay thật bản thân, giáo hóa tư tưởng hắc ám hướng về đường ngay thẳng. Vân ốm, thì buổi ấy, có người đến gọi mối Thanh. Thanh lên xe đi, không ngờ Vân theo sau, và chính công tử gọi mối ấy lại là Di (Di âm mưu công việc này để làm nhục Thanh) Vân thất thanh gọi mẹ quay lại. Di tin Vân trụy lạc như mẹ và thất vọng. Rồi Vân ốm gần chết, Thanh hối cải thành khẩn, không nề hà gì lột tự ái, đến nhà bà Huyện Hà, (người tình địch với Thanh vào buổi Di và bà Huyện Hà lên hỏi Vân cho Di, gặp Thanh và bị Thanh làm nhục). Giữa đường, Thanh thú hết tội với Di. Khi Di đến thì Vân chết.

Câu chuyện nằm trong bối cảnh xã hội cuồng loạn thời nô lệ. Tuy tác giả không nói đâu là xấu, tốt; nhưng chính bố cục truyện, tự cho người đọc hướng thiện. Tả pha tình yêu tuổi trẻ thơ mộng truyền cảm với bút pháp cao siêu của Thụy An. Câu chuyện nằm gọn trong triết lý nhân sinh, phơi bày được chính nghĩa (Vân) thắng sa đọa (Thanh), Thụy An Hoàng Dân đi sâu tâm lý nhân vật từ đầu đến cuối. Tả Vân mơ ước cuộc sống thanh thản như lý tưởng sống:

“…Này nhé, sớm mai dậy, con sẽ vô buồng má, con bồng má dậy, con dắt má ra vườn, cái vườn đầy hoa. Má con ta đi thăm những bông hoa nở lúc tinh sương. Rồi con sẽ hái một bó hoa mang về nhà để lên cây đờn piano. Rồi con sẽ đờn cho má nghe một bài đờn thiệt vui. Rồi má con ta đi ăn sáng, con ngồi khâu, hay đọc sách cho má nghe. Buổi chiều cũng như buổi sáng, má con ta quấn quít lấy nhau. Tối ở góc phòng má sẽ kể chuyện về ba cho con nghe…”

Thì đó chỉ là ý tưởng mơ mộng của người con gái trong trắng muốn lý tưởng hóa, cải giáo hoàn cảnh xấu xa mẹ mình. Thật đúng tâm lý biểu hiện và rất đáng phục ngòi bút tài hoa tác giả hiểu được tâm lý người cùng phái. Thụy An còn lột tả được hình tượng ngây thơ mối tình lứa thanh xuân, chỉ có một lần cảm động thành thật nhất là tình đầu. Đoạn văn lột tả âm mưu già dặn của Thanh, một cô gái giang hồ bị đời dày vò, tự đánh lừa; đến nay nuôi ý trả thù; từ giận người tình xưa bạc đãi phụ bạc; trả thù đàn ông cho bỏ tức; Thụy An biểu hiện tinh tế, hợp lý, hợp cảnh, hợp tình. Từ ý tưởng song hành tâm tưởng hành động giác quan, lúc bực bội, khi tàn ác, phút hối hận đến xen đột ngột như động tác kịch (coup de théâtre) (trang 100). Khi bà Huyện Hà lên hỏi Vân cho Di làm người đọc thích thú, hồi hộp như xem một tấn kịch cuộc đời đang diễn trên bục. Cái hay của chuyện ở chỗ thực, đến nỗi người đọc được chứng kiến như hình ảnh tương tự ngoài đời. Dụng ý hướng thượng là hướng dẫn hoàn cảnh thực tế theo kết luận hợp lý, nhân sinh phục vụ nghệ thuật (vie pour art). Tâm lý cô gái giang hồ về già như Thanh, ở phút lương tâm trỗi dậy tự hối (trang 177-178), Thụy-An-Hoàng-Dân nắm chìa khóa tâm lý trong tay đào hố sâu trụy lạc tai hại để người đời tránh đỡ sa vào cạm bẫy. Đoạn cuối cùng khi Vân ốm, Thanh về Nam Định rất xúc động (đoạn kết ở trang 276, 277, 278).

Một linh hồn điển hình cho khuynh hướng tình cảm tiến bộ của nhà văn nữ giới nổi bậc nhất tiền chiến. Khuyết điểm trong tiểu thuyết này cũng khó tránh nổi, dù là thiên tài đi nữa. Xét một tác giả phải nhìn nhận qua mọi khía cạnh. Trong Một linh hồn có đoạn tả Vân đi theo sau Thanh (Thụy An không diễn tả được thực; vì nghệ thuật hơi non ở đây, chẳng hạn như khi ôm Vân ốm thì phương tiện nào để có cho Vân theo mẹ (xe ô tô) hoặc sự sắp đặt của Di mời Thanh tiếp khách rồi nói dối là ông Bộ, khách chơi quen của Thanh (trang 271-272) không tự nhiên và thiếu linh động)

Phê bình.

Thụy An Hoàng Dân, nhà văn nữ giới có khuynh tình cảm tiến bộ, cải tạo xã hội, giải quyết vấn đề trong văn chương. Nhà văn sẵn chìa khóa tâm lý hiểu phụ nữ với nghệ thuật viết cao, bố cục truyện có luận đề, lồng trong một khung cảnh hữu tình. Bà là nhà văn đi tiên phong trong nữ giới về lối tả chân tâm lý, tình cảm tiến bộ, chịu ảnh hưởng nhiều Thiên Chúa Giáo, biết áp dụng hương cứu vớt Chúa vào đời sống nhân sinh nhật dụng. Tuy nhiên, chưa hoàn toàn chế biến giáo thuyết Tây Phương với sự hòa đồng về lối sống, cảm nghĩ Đông Phương. Dầu trong sự trầm lặng bi quan vẫn nung nấu ý chí đấu tranh mãnh liệt, không bồng bột như cách giải quyết theo lối Tây Phương (Nói thế, chúng tôi không so sánh nhân sinh quan Đông hay Tây hơn nhau; mà chỉ nói rằng sự kiện giải quyết cái chết hay ý chí con người của mỗi dân tộc, mỗi châu khác nhau). Kỹ thuật viết tiểu thuyết cao, văn thể nhẹ nhàng, cảm giác hàm xúc, điều hòa, luận đề nghiên cứu hợp lý, hợp cảnh. Một linh hồn là cuốn truyện hay không kém truyện hay của André Gide Khung cửa hẹp hay Người chồng muôn thuở của Fédor Dostoðevski.

Tới Bốn mớ tóc gồm nhiều truyện ngắn tả giai đoạn mới và cũ xung đột (tóc phi-dê và tóc vấn). Hoàn toàn là những mẩu chuyện về mớ tóc. Vợ chồng về tâm lý, cách xử thế trong gia đình: yêu, cưới, vợ chồng đối xử ra sao có hạnh phúc. Một phần tác giả sử dụng kinh nghiệm bản thân, hoặc kinh nghiệm bè bạn đem vào sách giúp ích kinh nghiệm lứa đôi xây dựng gia đình hạnh phúc.

Vũ Ngọc Phan nhận định về Thụy An viết “Tuy vậy Một linh hồn đáng kể là cuốn truyện xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay”. Hậu chiến, nhà xuất bản Bốn Phương do thi sĩ Đông Hồ chủ trương tái bản Một linh hồn ở Sàigòn.

2. NGỌC GIAO

(1911 – 1997)

Tiểu Sử.

Tên thật Nguyễn Huy Giao. Sinh 1911 ở Huế, nguyên quán Bắc Ninh. Bắt đầu viết từ 1937, ban đầu viết truyện ngắn tâm tình lãng mạn. Hậu chiến Ngọc Giao chuyển sang viết truyện thời đại, mang vết tích đời sống, lãng mạn cách mệnh, như tác phẩm Đất và trữ tình Cầu Sương hay thiếp phụ chàng. Tác phẩm này gần như là thoát dịch Bức tranh sơn của S.Maugham mà không đề phóng tác. Dư luận văn chương thời ấy vào thập niên năm mươi ở Hà Nội cho đây là vụ đạo văn.

Tác phẩm và khuynh hướng.

Tác phẩm đã xuất bản: Một đêm vui (truyện ngắn, 1938), Cô gái làng Sơn Hạ (truyện ngắn, 1938), Phấn Hương (truyện ngắn, 1939), Nhà quê (truyện dài, 1942), Con người (truyện dài, 1950), Cầu sương hay Thiếp phụ chàng, (truyện dài, 1952), Mối tình thiên thu (truyện ngắn phỏng theo Stephan Zweig, cũng không lấy từ Letter inconnue (Thư gửi người không quen)).v.v...

Truyện ngắn Ngọc Giao đăng báo sau tiền chiến, phần nhiều trên Tiểu thuyết thứ bảy của Vũ Đình Long. Như Đêm bão tố (số 1.T.T.T.B, 1949), Hoa đèn (số 2), Trạng thái (số 3), Chăn vịt (số 4), Phượng (số 9), Ông Kễnh (số 10), Cơn nóng của người đàn bà góa (số 11). Ông còn viết trong giai phẩm Lửa Lựu, Tia Sáng (Hà Nội), Thẩm Mỹ (Sàigòn). Sau hiệp định Genève 1954 ông ở lại Hà Nội.

Viết loại truyện tâm tình ở ban đầu không có gì mới lạ, vẫn là bố cục tình tiết éo le, tâm lý nhân vật thiếu hình tượng thời đại; nếu xét nghĩa văn chương phản chiếu cuộc sống. Tiền chiến ông chỉ là nhà văn giá trị bình thường. Hậu chiến Ngọc Giao nổi bật hẳn lên, sau khi tản cư về Hà Nội (1948) cho xuất bản một truyện nói lên tâm trạng bi thiết thời đại, đó là Đất, tâm sự não nề tác giả Quán Gió với lời tựa của nhà văn Tam Lang.

Từ tập truyện ngắn đầu tay Phấn hương, Ngọc Giao giới thiệu với người đọc tâm trạng thương nhớ, qua lối văn hoài cảm ngắn hơi của Marcel Proust, song ở Ngọc Giao không điển hình; bởi bi quan vô lối, diễn tả không hợp tình, hợp cảnh. Nhân vật truyện đều giải quyết cuối cùng bằng cái chết. Tất cả nhân vật truyện Ngọc Giao đều lấy cái chết giải quyết mọi vấn đề, cả khi bế tắc lẫn không bế tắc. Có thể, ông cho rằng đó là cách bố cục ly kỳ hay ho có thể làm độc giả giỏ nước mắt, nhất là đàn bà hấp dẫn bằng bi kịch: Cái Chết.

Trong Tiếng chim kêu tả con chim họa mi không được sống mà hót cho nên chết. Và kết luận:

“...Nó nằm ngửa trên bụi tầm xuân hai chân co quắp, một cánh sã ra...”

Truyện Lucie, có chồng rời khỏi Đông Dương về Pháp, nên Lucie kết luận cuộc đời bằng:

“...Người đàn ông ở xa Lucie quá, xa nghĩa là chết hẳn rồi...”

Truyện Đôi mèo thì mèo chán đời như chim họa mi, chẳng thiết cho người đời ve vuốt; mèo chẳng còn ham sống:

“… chết dưới một đêm tuyết(68) xuống tơi bời…”

Đến Thời gian, ông Tú cũng rơi vào trường hợp Lucie, hoặc như con mèo cũng chán bọn đua chen danh lợi, tiêu dao tuế nguyệt. Để rồi kết luận cũng bằng cái chết:

“...Nhưng đi làm được gần một tháng thì ông lìa đời…”

Chuyện chính tiêu đề truyện là Phấn hương cuối cùng cũng chết. Ngọc Giao chịu ảnh hưởng truyện trinh thám Tây Phương giải quyết chết và chết là hết chuyện chăng? Giải quyết kết cần chết của phong trào lãng mạn Âu Phương cao độ như Emily Brontë, Lamartine, Victor Hugo, Chateaubriand, (ông Tổ lãng mạn J.J. Rousseau)… hợp cảnh, hợp tình, mới hợp lý. Hay nói về cái chết phải nói như Blaise Cendrars trong Moravagine; Céline qua Mort à crédit (Chết chịu)… mới là cái chết cần giải quyết hợp cảnh, hợp tình. Hậu chiến Ngọc Giao vẫn mang tính chất cũ viết về cái chết của chuyện tình cuồng loạn là Phượng (T.T.T.B. số 9, 1949).

Phượng yêu Thông, Thông yêu Phượng. Rồi, Phượng xua đuổi Thông bằng cách đánh lừa chàng vào Sàigòn, và là nàng lấy chồng. Cuộc đời luẩn quẩn, Thông gặp lại Phượng tản cư lên vùng Yên Thế, con của Phượng có giọt máu Thông. Thông biết Phượng có con, nên nhất định không bỏ, Thông theo đuổi nàng, đòi làm lại cuộc đời dầu muộn. Phượng giầu tình cảm sa ngã, thì may cho nàng, có chiếc máy bay gần đấy thức tỉnh nàng nhớ đến con, chồng. Nàng chạy về nhà, Thông đuổi theo, máy bay tiếp tục bắn phá, Thông bị què. Khi gần khỏi chàng lại đến gõ cửa nhà nàng mấy bận. Phượng biết nàng làm lơ và Thông chán đời rồi đi đâu mất…

Ngọc Giao thường chỉ viết chuyện tâm tình tạo nút lôi thôi rắc rối, lồng tư tưởng lãng mạn, khiêu khích gợi dục, nhưng không là biểu hiện lập ý cao hay dùng dục vọng kiềm chế dục vọng khác (dĩ độc trị độc), mà để thỏa mãn ngòi bút dâm tặc. Và ông có giọng văn ngọt ngào, thể văn bay bướm, khiến độc giả phái yếu say mê truyện tình Ngọc Giao.

Tả cảnh chia ly chẳng mới (giữa Phượng và Thông), tác giả cậy có tài nguyên lãng mạn cùng thể văn bay bướm, trữ tình làm cho độc giả yếu tim nức nở tình đời oan khiên:

“… Người chồng nàng đến nhìn qua cửa sổ đứng lặng đi một lúc. Nhờ giăng soi, Phượng nhận rõ da mặt sâu như vực thẳm, nhưng trên môi vẫn giữ nụ cười kiêu hãnh chán chường. Mắt chàng dạo nhìn tứ phía, thoáng một ánh sáng dữ tợn và đau khổ. Phượng muốn chạy ra nhưng Phượng thấy run sợ thế nào? Biết nói gì với Thông đây, thôi đã đến thế này thì thôi vậy. Đành là cả hai cùng câm nín để mang mối tình thương nhớ suốt đời.

Ngưởi trẻ tuổi khẽ gõ vào cửa buồng Phượng, chàng có cử chỉ thông thạo và bạo dạn của một người đã quen làm việc ấy nhiều lần. Phượng thổn thức run lên:

- Trời ơi! Hẳn là Thông nhiều đêm lẻn đến đây, vậy mà ta có biết gì đâu? Thông ơi! Anh yêu em đến mức hủy bỏ cuộc đời trai tráng, em có tội với anh nhưng mà thôi, câm nín mà yêu anh cho đến chết ! Người đàn bà gục xuống, nhét chặt chiếc mù soa dính máu – máu tình nhân vào miệng – cho tiếng nất khỏi bật ra. Hai vai Phượng rung lên và gió khuya lồng mớ tóc mượt dài bay theo gió. Người tình nhân gõ thêm ba tiếng nữa cho thêm một lát rồi lại cúi đầu tập tễnh lê đôi nạng khuất sau nương chè dào dạt gió…” Đọc đoạn văn trên, ông muốn đưa thanh niên thời loạn đến chỗ yêu là vạn năng sức sống. Nhân vật trữ tình, bởi lẽ thanh niên có thể chán chường chính trị, để tìm đau thương ẩn thể trong tình yêu, nhưng được giải quyết có lập ý, không tầm thường như chuyện tình ba xu. Ngọc Giao chán chường chính trị, hồi cư trút ẩn ức, tâm tư bế tắc qua truyện lãng mạn diễm tình, không đem lại một âm hưởng gì mới lạ. Truyện tình viết ở hậu chiến cũng như trăm chuyện tình viết ở tiền chiến; thì còn đâu là văn chương mang vết tích thời đại? Ở Hoa đèn, ông thương tiếc dĩ vãng, thần thánh hóa quá vãng qua mộng. Tư tưởng Ngọc Giao lúc ấy bị hai tác dụng “vật chất no đủ thì tư tưởng thiếu thốn, mà tư tưởng thiếu thốn lại phải quay về lý tưởng dĩ vãng”. Vì thế, lối thoát tinh thần trong hướng văn chương Ngọc Giao như không có, kể cả truyện tình điển hình như Cầu sương. Hay truyện điển hình xã hội như Đất chẳng hạn.

Ở Hoa đèn mang ý nghĩ như vừa phân tích:

“...Mạnh nhớ lại mùa thu năm trước, loạn ly đã đẩy anh lên miền sơn cước, sống đời gạo hẩm nâu sồng. Khuất chìm giã cái triền miên sâu rộng của núi rừng, chung quanh đất đỏ áo chàm, Mạnh đã bơ vơ lạc long với cái tâm sự của ông già Tô Vũ. Ấy thế, rồi có một buổi chiều đi chơi gặp mưa giữa đường rừng, Mạnh chạy vào một trang trại lưng đồi. Cái ông phán già chủ trại cũng là một loại tình chung thuở tóc xanh, ông đã trân trọng rót bát nước chè tười đồi nhà mời khách. Ông đã vui câu chuyện thị thành mở hòm bày ra chiếc giường tre mấy chục quyển sách bìa da, gáy nạm chữ vàng và có hai quyển mang cả triện son chữ ký của anh. Mạnh đã có cái thú vị của một anh chàng lính thú được nằm mơ thấy màn yếm đào chị vợ trong cái đời chém tre đẵn gỗ trên ngàn. Mạnh yên lặng, nâng tác phẩm của mình lên một lát rồi đặt xuống giường giả chủ nhân… Ông phán già nói qua khói nước chè vàng xanh: “Ông ở tỉnh tất biết người đàn bà ấy nhỉ? Mai Chi đấy mà! Cũng là một phường luân lạc cả, làm gì mà chẳng biết nhau. Mai Chi đã có chồng. Nhưng chồng Mai Chi hiện ở chân trời, vui bồng tang để ông chí lớn…”

Từ sự thần thánh hóa cái thương nhớ hão huyền, đôi khi lại phi lý, chẳng ích gì; ông cho Mạnh gặp tác phẩm và chữ ký của nhà văn tặng một người con gái quen biết, bây giờ là đàn bà có chồng lưu lạc. Chỉ có thế và người chồng của người đàn bà tên Mai Chi ấy đang ôm chí lớn. Phản ánh nhiều tâm tư tác giả; hồi cư thì chán cảnh thống trị của thực dân Pháp; tư tưởng lại một lần quay về với dĩ vãng, vọng kháng chiến. Còn cá nhân thầm kín thì mơ một cô nhân tình thuở đầu tiên thật lý thú, nhưng nghèo nàn đã để mất đi. Phần nhiều chuyện lãng mạn diễm tình của Ngọc Giao đều có mẫu người giống nhau, có khác chỉ là khung cảnh, thay đổi địa điểm. Cho cảnh một: hai người yêu nhau; hai: người đàn bà xa đàn ông; ba: người đàn ông không thể sống cô độc, chung tình như Xuân Diệu ngâm qua ý thơ:

“Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất

Trao cho em nên anh đã mất rồi…”

Đàn ông tìm đàn bà. Vô tình gặp đàn bà xưa đã yêu và chồng họ ở xa họ –làm sao không có chuyện, làm độc giả khóc buồn theo định lệ. Trời mưa, gió rét, chăn trùm trên, nệm ấm dưới, và hai cánh tay vượt khỏi tầm tay. Đó là cớ than khóc cho người trong cảnh truyện tình Ngọc Giao.

Đất tác phẩm có thể gọi là tác phẩm để đời của Ngọc Giao. Và trong bối cảnh nhiều vết tích thời đại; con người, quê hương, khói lửa. Tả gia đình dân quê đam mê quê hương, Đất là tất cả.

Trước khi phân tích Đất còn phải nhắc một truyện tình lãng mạn điển hình của Ngọc Giao nữa; tác phẩm này mang hình ảnh thời đại qua văn chương hơn hẳn truyện tình khác cùng tác giả. Giá trị nội dung tiến bộ hơn chuyện tình có bố cục ly kỳ từ trước của ông. Khi báo chí Hà Nội vào thập niên năm mươi tranh luận, có báo cho đó là truyện tình lấy khung cảnh Bức tranh sơn S. Maugham, mà ông đưa vào làm của riêng. Không đề phỏng dịch, cũng như La lettre inconnue của S. Zweig qua Mối Tình Thiên Thu ký tên Ngọc Giao.

Cầu Sương hay Thiếp phụ chàng (Thế Giới, Hà Nội 1952). Ngọc Giao cho biết tổng quát cốt truyện. Vào đầu tả Hạnh phụ bạc chồng. Văn cầu kỳ gọt rũa; sau Nguyễn Tuân ít ai sánh kịp! Khai từ bằng một lối văn kịch bản tiểu thuyết, ông làm rung cảm người đọc qua một pha hồi hộp chỉ có phim hay Tây Phương:

“… TRÂM. – (Giọng bùi ngùi) Cái nhà này, phải, tôi còn nhớ lắm đã có một lịch sử gọi là khá ghê gớm!

HẠNH. – (kinh ngạc) Thưa bà, một lịch sử ghê gớm, cái gì thế ạ?

TRÂM. – ngắm nghía lên gác – Nếu tôi không nhầm thời gian, buồng ở tầng gác thứ hai bị phá mà chưa chữa lại phải không bà?

HẠNH. – Vâng có lẽ hồi Nhật đóng quân ở đây, nhà bị bom đạn trúng phải chăng?

TRÂM. – (lim dim mắt) Tôi lại nhớ ở một phòng góc thứ ba trên tường có ba vết bàn tay máu. Ngày nay nếu chưa quét vôi thì vết tích bi thảm vẫn chưa nhòa.

HẠNH. – (hoảng sợ) Trời ơi! Một vụ ám sát thưa bà?

TRÂM. – (càng lơ đãng) Hơn thế nữa kia, một vụ tự sát (cúi xuống giọng xa xôi). Mà tự sát bao giờ cũng đáng sợ hơn ám sát. (trầm ngâm khẽ thở dài) Ồ, Ồ… người ta yêu nhau… Người ta không lấy được nhau… đến nỗi rằng người con gái mài dao, một sớm (Bỗng ngửng lên tỉnh táo). À này bà Hạnh nhỉ, cây trúc đào ở góc vườn giáp tường hoa bên phải ấy, bao giờ lên tốt lắm phải không?

Khi đó bóng tối theo mưa gió hắt vào căn phòng vắng lặng. Hạnh ra cửa sổ nhìn theo người đàn bà khổ não đi trong giông bão. Gió mưa thổi lộng mãi vào mặt Hạnh. Nàng mệt mỏi, cố đứng tựa đầu vào cửa kính, nhìn lá rụng, mưa rơi…

Chuông nhà thờ Cửa Bắc đổ hồi rộn rã.

Hạnh ôm mặt khóc nức lên…

Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Ngọc Giao; lối văn biễn ngẫu hẳn là hay! Vả lại, đúng nghĩa tiểu thuyết có một sức quyến rũ, hấp dẫn, truyền cảm; thì ông thành công trong bút pháp. Thắt nút cho người đọc bị gợi lòng tò mò, không thể ngắt; sau tác giả mới nhập đề. Ông đưa người đọc vào tác phẩm. Tả pháp sư Sở khanh, người nào có cách sống loại, Hải, pháp sư Sở khanh rót vào tai Hạnh, vợ bác sĩ Cung lời quyến rũ say mê; như rắn trong hang bò ra theo điệu nhạc dụ:

“…Hải đã chẳng nghẹn ngào than với Hạnh mỗi khi đón hẹn nhau ở chợ búa, hay đầu đường, quán nước rằng: “Mình ơi! Tôi xa tất cả để lẽo đẽo theo mình như bóng giăng thu”. Hạnh chỉ còn khóc mà tạ cái tình cao siêu của Hải bằng cách thừa cơ hội Cung đi công tác vắng, lại mở va li vét cái gì là nhuyễn riêng tây dâng Hải… Hạnh đang say ân ái, chẳng nghe lời chim tiếng gió, chỉ biết có đôi tay Hải, giọng thì thầm của Hải. Hải đu người chân rún cành cây. Cành lá đập lia xuống suối khiến đôi bóng chập chờn gương nước. Hai người cùng la to để rồi phá lên cưới.

“Họ sải tay rẽ vào bờ, phẩy lên bãi cỏ. Tự nãy tên đầy tớ điếc giữ việc canh quần áo, đã làm xong bữa cơm lam. Đôi tình nhân đứng sau một bụi cây thay quần áo rồi ngồi trên cỏ ăn cơm nóng dịu vừa lấy ra từ lòng khúc tre vầu(69) nướng chín. Ăn xong tráng miệng xím chin nước dừa tươi, đôi nhân tình khoác tay nhau ra về cười vang cả suối rừng.

“Xuống con đường thung lũng, Hạnh bỗng để ý đến vết bánh xe đạp in rất rõ trên đất mềm ven bờ cỏ mát. Hạnh thảng thốt kêu thầm lên một tiếng: “Sao lạ thế này?” và Hạnh nhớ ngay đến ánh đèn pin xanh biếc chập chờn xuyên bóng tối ở quãng đường này, bữa vừa qua đôi tình nhân dừng gót lại đây để ngắm cảnh giăng chìm, sương thu muộn.

“Sao lại thế này?” người đàn bàn run sợ cúi đầu nhằm vết xe hằn xuống đất như nhìn vết máu tội tình đang quằn quại chảy trong thiên hương mờ mịt.

Hạnh lảo đảo bước, tránh vết xe càng xuống dốc càng rạch lưng đất mềm. Cung đã qua đây, có thể thế được không? Cầu Trời đó chỉ là một cơn mê hoảng…”

Ngọc Giao tả chuyện tình cùng pha ái ân của đôi tình nhân thì tuyệt đích sự an hưởng. Người đọc tưởng tượng được trăm hình, ngàn vẻ, hưởng sự sung sướng cao độ ăn vụng ái tình. Như con rắn ngày xưa vào vườn ăn trái cấm vậy.

Cảnh ấy, nhân vật ấy, chỉ là mẫu người chán chường thua cuộc. Pháp chiếm đóng thị trấn, tác giả tự nhận không thể chịu khổ sở kháng chiến về thành. Tâm tư nhà văn bị dồn ép thì sau đưa vào nhân vật được xây dựng trong tác phẩm.

Cầu Sương của Ngọc Giao bố cục chặt chẽ. Vai Cung khinh bạc kiêu sa, vai Hạnh đa tình lãng mạn, thèm mới, vai Hải lưu manh duy trì lợi giai đoạn. Sống trong xã hội thịnh trị những ngày tiêu dao tuế nguyệt, ngắm trăng lên, sương thu muộn, để mà nhắc lại tâm tư của số người cuồng loạn.

Đất của Ngọc Giao, một tác phẩm điển hình cho văn nghiệp ông. Nói như thế, hẳn không lấy gì gọi là lạ! Đất một tác phẩm đẹp nội dung, phản ánh nhiều hình tượng cuộc đời, của hoàn cảnh xã hội đứng lên chống đế quốc xâm lược”. Ở đây với những dòng chữ bỏng cháy này sẽ tiết ra, sẽ dựng lên một cuộc đời gai lửa, nghẹn uất của những người mong được sống, thiết tha trong cuộc sống thấy lẽ sống chỉ khi nào họ được bám chặt vào đất, ghì lấy đất…” Đất của Ngọc Giao sau tiền chiến, như Trại Tân Bồi của Hoàng Công Khanh.(70) Ông dùng bối cảnh xã hội điển hình, bố cục, nghệ thuật dàn truyện hấp dẫn say mê nói lên nỗi khổ con dân Việt đông diệt đến chín mươi phần trăm ấy. Còn cảnh sống ghê rợn ở Đất, thấm nhuần cảm tưởng căm thù, khi non sông nghiêng ngửa, nhưng không phải sự ghê rợn trong truyện Cầu Sương. Anh Xã Bèo yêu con trâu, yêu đất: Nhân sinh quan nông dân gồm tình tiết đúng xác.“Anh Xã đứng sững lại nhìn thân tre chen chúc trên mảnh vườn nhỏ hẹp bên vũng ao bèo tấm. Anh Xã thấy lòng vui vui khi nghĩ rằng mình vừa mua được mảnh đất ấy của Trương Dần. Cái việc Anh Xã Bèo tậu đất vừa tháng trước đây đã làm cho cả làng phải bàn tán mãi. Ai đời, cái anh Xã Bèo từ xưa vẫn trên răng dưới khố ấy mà lại được mồ mả ra sao, mới có một năm trời mà anh đã tậu được vài sào ruộng tốt, mua được con trâu, ngâm được bờ tre này, lại mới tậu được mảnh vườn bương(71) này nữa. Miếng đất méo mó chỉ đáng dùng cho con chó bậy, nhưng anh Xã cứ nhất định mua bằng được”.

Ngọc Giao đã thấu hiểu giai cấp tính nông dân rất sâu. Xã Bèo mua lại được miếng đất của một tên ngày xưa đã chửi mình, bây giờ mua đất là sự trả thù cao thượng. Ở nông thôn, họ sống trong cung bậc, trong sự khen chê của dân làng. Điều này vô cùng quan trọng:

“...Không ai biết, chị Xã cũng không biết rằng chồng nhất định mua miếng đất ấy để trả thù với Trương Dần. Bởi vì có một ngày lâu lắm rồi, Trương Dần trong bữa rượu đám ma đã trỏ vào mặt Xã Bèo đang gậm xương dưới bếp mà rằng: “Cái đời thằng Bèo chỉ ăn mày, ăn cắp, nó sống ngày nào còn làm bẩn cái làng Nguyệt Đức...”.

Chỉ có thế mối thù Xã Bèo đã nuôi hai năm để giờ phút này, Trương Dần cờ bạc bê tha, phải bán đất cho Xã Bèo. Văn viết thông, lập ý cao, không gọt rũa, chân phương tả cảnh sống bình dị thôn quê. Tâm lý nhân vật sâu sắc, tác giả biết điều động diễn tiến tình cảm mỗi nhân vật hành động đúng lý, hợp cảnh, hợp tình. Từ chỗ Xã Bèo trả thù xong, anh nông dân làm ăn khấm khá, có đất, có trâu, có lợn, có ruộng, thì tại họa lại đến với anh. Người đọc bắt đầu lo lắng cho sự an hưởng của Xã Bèo sắp đến giờ phá sản. Dẫn người đọc từ lo âu sang thỏa chí, lại lo âu như sóng lên xuống, rất hợp lý. Đó là nghệ thuật già dặn của tác giả: “...Từ tỉnh Mỹ hào đến đây đường bộ thì xa chứ tính đường gió thì chả được là bao, năm cây số là cùng. Năm cây số mà tàu bay nó bay, xe tăng nó chạy thì...”.

Ngọc Giao dẫn người đọc bắt đầu vào thời tao loạn có xe tăng, tàu bò, tàu bay, bắn phá; máu sẽ chảy, người sẽ chết. Khí giới giết người ấy là kẻ thù Xã Bèo, như nhân vật chính là một nông dân trong La vingt cinquième heures của Gheorghiu(72) , nhiều khi vào tù mà không biết phạm tội gì? Cách mạng đến với người dân Việt chóng quá, bở ngỡ như Ả, Q. của Lỗ Tấn, với cuộc cách mệnh Tân Hợi ở Trung Hoa. Xã Bèo có lo xa, nhưng với sự nhìn xa của anh rất nông cạn: chẳng hạn anh định tâm trồng bương để sau này làm nhà cho con trai lấy vợ. Rồi loạn lạc, chém giết, bom đạn khiến cho Xã Bèo phải:

“...Anh Xã bỗng đứng lại. Đầu anh gục hơn nữa. Qua bụi tre bương anh cũng không muốn, như mọi lần, nhìn một cách sung sướng những thân tre to đẹp để mơ màng một ngày nào đó anh sẽ ngả những cây tre ấy xuống làm nhà cho hai thằng con trai trước khi cưới vợ cho chúng nó. Anh khổ sở lo lắng quên cả mấy chiếc măng mới mọc. Anh ngao ngán thấy binh lửa rồi sẽ tới thiêu trụi, tàn phá hết huống hồ là chiếc măng non…(….) Xã Bèo quay trở lại, dáng băn khoăn, lo lắng. Anh nhìn chừng vào bụng vợ làm ra vẻ tự nhiên: “Thế bu nó có mang rồi đấy à?” Người vợ nghe chồng hỏi mấy câu đột ngột, ngưng tay làm, ngừng tay lên cười rồi khẽ gật. Cái cười làm đôi mắt có đuôi và hàm răng hôm nay sao người chồng thấy nó cũng đen hơn trước.Xã Bèo đến gần bên vợ: “Được mấy tháng rồi u thằng Đanh nhỉ?” Người vợ cúi đầu rồi thẹn như cái tính chị vẫn thẹn khi tối đèn tắt lửa gặp chồng…”

Ông tả những cử chỉ, thái độ luyến ái của người đàn bà nông thôn Việt Nam rất điển hình. Yêu nhau là một việc không thể từ chối., nhưng sự yêu đương phải khép nép, e thẹn, tinh tế; có như vậy mới không bị gán lăng loàn. Văn của ông không mang tính chất luân lý như Lê Văn Trương, vỗ ngực giảng cho đời nghĩa sống, hoặc đả phá dữ dội như Nguyễn Đức Quỳnh (mặc dầu hủ tục có khi cần đả phá); Ngọc Giao chỉ tả cái đẹp và hiền hòa của nông thôn. Văn trong Đất bình thường có hình tượng sống. Nhân vật Xã Bèo như một Ả.Q. Chính Truyện của Lỗ Tấn tả nông dân Trung Hoa thập niên năm mươi, Ngọc Giao còn lối nhận xét nữa, quan sát thật tỷ mỷ, không thừa không thiếu, giúp cho người đọc hiểu nông dân hơn. Tả sự mê tín (đôi khi) không bình luận gì thêm, nhưng cách đả phá nhẹ nhàng, lạnh lùng. Bác Cống gái thấy chồng lên đồng, quên công tác cách mệnh, phá đường chặn giặc Pháp. Và đây là cuộc đàm thoại giữa mới và cũ, sự xung đột cỏn con bắt đầu:

“...Người đàn ông đeo súng cười rằng: “Chị Lý nói dối”. Vừa ban tối, tôi trông thấy anh Lý đi trong sớm kia mà.Một người khác cười to một tiếng:Tôi biết hiện giờ anh Lý ở đâu? tôi nói nhé: bố ấy đang lên đồng trên chùa ấy. Bố ấy lên đồng quan tướng, ghê quá mất thôi". Mấy người đứng quanh người đeo súng phá lên cười một lúc: “Có đúng thế không chị Lý?” Người đàn bà cúi xuống, mân mê cái góc bàn: “Vâng, bố cháu hầu thánh”, nếu không chịu hầu thánh thì thế nào cũng ốm đau. Xin các ông tha cho bố cháu lần này. Người đeo súng trang nghiêm như một nhà chính trị nói với ai chứ không phải một người đàn bà ngu dốt: “Không được. Cách mạng không thể dung cho những người mê tín. Bệnh mê tín làm cho con người thoái hóa. Óc duy thần làm giảm sức bành trướng của duy vật chủ nghĩa. Phải đả kích óc mê tín, óc duy thần, bởi vì, bởi vì...Anh tròn mắt nhìn ra ngoài trời tối để tìm chủ nghĩa, danh từ gì đó, nhưng trời tối mù mù anh ta cầu kinh: “Bởi vì cụ Mác bảo thế…?”

Có một điều Ngọc Giao không để ý – giữa năm 1946 -1947, ngoài những cán bộ cao cấp lãnh đạo là cộng sản nhưng bên trong không được công khai ra mặt; vì họ đã ra lệnh cho cán bộ trung cấp cũng như hạ cập như vậy. Nếu có một cán bộ nào đúng như Ngọc Giao tả, mà vô tình đến thế chắc chắn bị kỷ luật. Ngọc Giao tỏ ra là nhà văn nhận xét tỷ mỷ. Hình ảnh người đàn bà mà chúng ta thấy trong đoạn văn dưới đây: “...Chị Xã kéo chăng đắp kín đầu chồng. Xã Bèo đã ngủ, tiếng ngáy đứt quãng vì thỉnh thoảng lại giật mình. Người vợ gón rén bước qua cái ngưỡng cửa hơi cao. Khép cửa buồng lại, chỉ khẽ nâng cánh liếp, nấu cháo cho chồng ăn, nghĩ rằng chỉ có một bác cháo chộn hành tươi với lá tí tô, mồ hôi thoát ra được là bệnh khỏi..."

Ông cho thấy cảnh ốm đau ở thôn quê, chữa rất sơ sài, đúng với thực trạng xảy ra thường xuyên không cầu kỳ, chỉ dùng thuốc gia truyền. Tả vai bà mẹ chồng rất điển hình, thái độ chửi con dâu bóng gió, hoặc luôn luôn hờn mát như trẻ con, Ngọc Giao nhận xét tâm lý thật vững: “...Thôi ạ, cô để tôi đun, không làm gì thì người ta nhiếc cái con gái già công lưng ăn hại cơm gạo của người ta. Dao ôi! Mẹ nuôi con như sông như bể, con nuôi mẹ kể từng ngày. Chém cha nó chứ con với cái…”

Ngọc Giao nhận định thật đúng cảnh mẹ chồng vùi dập con dâu, chú ý từng cử chỉ nhỏ để hành tội. Trái lại, con dâu phải mím răng chịu đựng:

“...Chị Xã cúi xuống còi rơm đun nồi cháo. Không mấy khi chị đáp lại lời đay nghiến mẹ chồng. Chỉ biết rằng mẹ già trái nết và tự xét mình cũng chẳng hư hỏng gì, thôi thì cứ nhịn nhục đi cho cửa nhà ấm ấm…” Hoàn cảnh xã hội xô đẩy, Ngọc Giao cho người đọc thưởng thức một pha hoảng hốt của dân quê. Tình tiết tự sự, lo âu, sợ hãi của gia đình Xã Bèo, của người quanh năm sống trong lũy tre xanh, bần thần; khi nghe Ủy ban buộc phá hoại vườn không nhà trống. Lúc ấy, cảm tưởng của người dân quê ra sao? Ngọc Giao trình bày thật đúng xác:

“...Có lệnh tiêu thổ, chúng tôi yêu cầu anh chị Xã rời ngay nhà để, rồi chờ lệnh tản cư.. Câu nói như sét đánh. Mắt chị Xã mỡ tròn, miệng chỉ hé ra, tay chị đang cầm xiêu nước sôi rơi xuống đất, nước nóng rội vào bàn chân, chị rãy lên, nhảy lùi trở lại. Một tiếng kêu bật ra thảng thốt:

– Thưa ông…

Người răng đen đi ủng kéo cái điếu lại gần, đánh diêm hút sòng sọc nói bằng một giọng khàn: “Mà phải cỡ nội ngày mai cơ đấy. Rỡ lấy thì còn được cái rui, cái kèo nguyên vẹn chờ một ngày kia dựng lên. Chứ mà để người đến rỡ hộ thì cứ là đi đứt ráo".Có một tiếng động mạnh trong buồng. Chị Xã bước đến ngưỡng cửa đẩy cánh liếp ra, người chồng ngã rụi trên mặt đất. Chị vội nâng chồng dậy. Anh Xã rên thảm xiết:

- Thế là nghĩa thế nào? Không. Tôi không rỡ nhà, tôi không đi đâu hết.

Chị Xã cố sức đỡ đặt chồng lên giường. Giọng chị run như khóc:

Bố nó! Bố nó! Nói khẽ chứ!

Anh Xã muốn nói, nhưng rồi mắt anh vẫn nhắm lại, hai tay anh chời với quều quà trong bóng tối. Chân anh khẽ rẫy đạp vào vách đất.

- Chị Xã thốt lên kêu:

- Bố thằng Đanh! Bố nó làm sao thế này?

Ngoài sân, con Mực đuổi theo chân khách sủa vang. Bị một hòn gạch ném trúng đầu, con vật vẫn cắn ác tiếng cười của ba người lạ mặt.Anh Xã vùng ngồi dậy, sô cả người ra, ngoài ngưỡng cửa buồng. Không còn ai ngồi kia nữa. Chỉ con chó đứng trên thềm nhìn anh mắt nó đỏ ngầu, lưỡi nó thè ra hừng hực thở. Anh quay vào, ngã xuống giường. Chị Xã ngồi bên, nắm tay chồng thổn thức…”

Cảnh loạn lạc đưa người ta tới đau khổ. Đau khổ đưa con người ta tìm lối thoát, bằng cách suy nghĩ lung, rồi bộc lộ thành lời nói hoặc hành động, phản ứng. Chị Xã Bèo của Ngọc Giao bây giờ bắt đầu lý luận, mà lý luận xác đáng, dựa vào sự kiện xảy ra:

"... Chị Xã ngoảnh nhìn chồng mắt đỏ:

– Chuyện bố thằng Đanh, người ta phá cái nhà này, rồi mai kia người ta xây nhà Tây khác, to gấp hai ngay được; chứ mình mất nhà này thì cứ rúc bờ chết bụi suốt đời như đàn chó sói...”

Ủy ban phá hoại báo cáo từng nhà thi hành lệnh “vườn không nhà trống” thì bác Công, người hàng xóm Xã Bèo quá tiếc của, chỉ còn cách đốt nhà nhìn cho sướng mắt. Vì chính tay mình làm ra lại chính mình được phá đi.

"... Lý Công ngồi vắt vẻo trên nóc nhà cao nhìn sang bên anh Xã nói:

- Rỡ làm gì, sốt ruột. Đốt cả nó đi cho xong quách anh Xã ơi!

Rồi bác thét to hơn:

- Này tôi đốt nhà này, bà con làng nước ơi, tôi đốt nhà tôi đây này!

Nói làm liền, Lý Công móc túi lấy bao diêm. Lửa diêm bén ra nghi ngút khói. Lửa bốc lên nhè nhẹ rồi cao, cao dần.Vợ con bác Lý kêu ầm trời đất. Lửa cháy càng cao. Cả làng kéo đến hô bác Lý Công trèo xuống. Nhưng bác cứ đứng nhìn lửa cháy. Bác không cười hát như ban nãy nữa, bác khóc như vợ con bác. Mấy người đàn ông trèo lên lôi bác xuống. Lý Công không xuống bằng thang mà cứ để cho cả người tuồn tuột theo mái rơm rơi bịch xuống sân…”

Ruộng nương, cây cối là máu mủ của dân miền quê, sau trâu bò. Ngọc Giao vừa cho chúng ta hiểu thêm một tâm lý kỳ lạ và rất hợp cảnh, tình, lý thứ chất điên trong con người tận cùng hành động, có thể làm liều, kể cả liều nhất. Bây giờ tác giả cho chúng ta hiểu về Xã Bèo đau đớn, nhìn những thân tre bị đốn ngã để chặn đường quân địch: “Thế rồi, thốt nhiên”… đó là những mẫu động tác Ngọc Giao tả về hành động Xã Bèo rất linh động:

“…Anh đứng ngẩn người ra, tưởng chừng cuống họng mình như có bàn tay ai đùa nhả đứng đàng sau mà bóp. Thế rồi, thốt nhiên, Xã Bèo tiến đến nắm cánh tay một người trẻ tuổi vừa ngưng dao chặt, giữa lúc một thân cây ngã răng rắc xuống bờ ao. Một cành tre theo thân cây đổ mạnh, quật ngang mặt Xã Bèo. Anh bật kêu kên như con vật bị đánh:

- Sao lại chém tre của nhà tôi? Không thể được! Không thể được!

- Cái gì mà ghê lên thế? người anh em. Xã Bèo ngoảnh lại, Trương Dần đứng bên anh từ lúc nào nhìn anh cười mà nói tiếp:

- Chém tre ngăn quân địch, đó là nghĩa vụ công dân. Anh phản kháng chăng anh Xã?

Anh Xã liếc nhìn con mắt Trương Dần cũng sắc như mũi kiếm. Anh lủi thủi bước đi. Sau lưng anh những mũi dao tới tấp múa lên và những thân tre quằn quại ngã xuống ao bèo răng rắc. Anh gục mặt xuống mà rảo bước trên con đường làng nhầy nhụa...".

Cảnh loạn ly, những tiếp diễn trăm vạn cảnh não lòng khác nhau, Ngọc Giao cho người đọc thấm nhuần trong sự thông cảm nỗi đau đớn nông dân an phận, bị xáo loạn. Bây giờ đến cảnh chôn của trước khi đi lên đường tản cư. Nào mâm thau, chậu đồng, ninh, nồi. Hai tiếng cách mệnh, thật gây bao nhiêu lo âu, hồ nghi của tâm trạng chung, trong đó có Xã Bèo:

“...Hai vợ chồng cầm mai, cuốc ra ngoài vườn tối. Anh Xã vờ ho một tiếng ra điều mình đi giải(73) đây, trong khi ấy anh thu gọn cái cuốc vào sát nách anh đứng lại bên cây muỗm ở góc vườn cát bờ ao trông sang chùa. Anh Xã, sau lưng là chị Xã, rỏng tai nghe ngóng. Anh cúi nhìn qua bờ rào thưa, ngoài kia là một cánh đồng có một ánh lửa chập chờn. Ánh lửa, lục đục, lúc xanh, có khi vụt lên cao, có khi hạ xuống thấp. Giá như xưa thì anh Xã nghĩ ngay rằng đó là đức Thần nông hiện chơi trong đêm hay đi phó hội ở bãi gò nào đó, nhưng bây giờ thì Xã Bèo biết ngay là ánh đèn pin của người đi làm việc ban đêm… nghĩa là đi công tác khai hội, hay là đi phá hoại…”

Ngọc Giao tả đoạn vợ chồng Xã Bèo chôn của, đến ý nghĩ mới từ khi có cách mệnh, nó làm tan mê tín; đó là nghệ thuật cao khi tác giả cần đả kích. Cũng vẫn trong cảnh chôn của, Ngọc Giao cho thấy hai cảnh: trần gian và tiên giới. Xã Bèo nghĩ đến chùa chiền, các sư, các tiểu, rồi Xã lại sợ chôn của gần chùa thì mất. Ngọc Giao đã kích mê tín thật linh động. Và đoạn này cũng là phần khởi đầu, Xã Bèo và Lý Công sửa soạn tản cư, ông viết với giọng văn truyền cảm, làm sao người đọc không não lòng với bối cảnh xáo loạn của xã hội như thế. Hình ảnh tản cư vào năm 1946:

“...Từ nãy vợ chồng anh Xã, vì đợi mẹ, đã đỗ gánh trước sân đình dưới gốc cây cổ thụ bên sông. Vợ chồng anh cũng nhìn mấy mảnh ruộng trồng khoai đỗ bên kia bãi sông: mầu xanh non là khoai lá đỗ trên những luống đất vừa xới làm vợ chồng anh Xã Bèo đau lòng đứt ruột. Chị Xã lại khóc thầm trong giải yếm sồi đen. Anh Bèo mím chặt môi, mắt anh đỏ ngầu như mắt con trâu của anh đang lôi xuống bờ sông uống nước. Chao ôi! Nó uống lần cuối cùng nước sông làng để mang đi nơi xa thẳm nào không biết cái nước sông váng đục mà nó đã đằm, đã uống từ thuở còn làm con nghé ngọ gọi mẹ vang cả cánh đồng nhà.Bà cụ Xã gồng gánh đến nơi. Bầu đoàn thê tử Xã Bèo ra khỏi lũy tre làng. Con sông Đào làng Nguyệt Đức lăn tăn gợn sóng xuôi về phía sau cầu Đáy xa xa, lăn giữa đôi bờ lau sậy, có nước và những bụi tre vàng lá. Ngôi sao lấp lánh trên nền trời mờ hơi sương, rơi yếu ớt xuống lòng sông. Gió phơ phất lạnh. Những bước chân dẫm nhẹ làm tan vỡ những màng sương trên cỏ đọng giá ướt và xua động những con cào cào sòe lông cánh đỏ bay hốt hoảng qua ruộng nước. Con cú trên cành muỗm rỏ vào sương sớm ghê rợn những tiếng hát như tiễn đưa người…”

Một hình ảnh đẹp trong cảnh tiễn đưa tang thương của nông dân phải từ giã xóm làng, Ngọc Giao thấm nhuần nhiều nếp sống quê hương. Từ những cảnh đau khổ người dân phải rỡ nhà, bác Lý tự tay đốt nhà, người đọc có cảm tưởng rằng họ có thể chết với của cải, trâu bò, đất đai của họ ngay được. Nhưng qua phút ấy, họ trở về với thường nhật, nghĩ rằng tình yêu quê hương cộng với tình yêu đất nước: quê hương còn; nước mất thì không còn. Đến nhiều xen tả cảnh, Ngọc Giao tả linh động, nhân cách hóa loài vật tiễn đưa người làng Nguyệt Đức. Tiếng cú giỏ vào sương sớm, con trâu uống thêm một hớp lần cuối cùng nước sông làng; để sau đó đi tới phương trời xa thẳm. Rồi chẳng bao giờ được trở lại quê hương. Tình yêu người và loài vật linh động như sống có tình cảm, cách xứ thế phản ánh thật trung thực trong văn chương. Triết lý nhân sinh nhật dụng hay là khía cạnh nhân sinh quan Việt Nam qua ca dao, dân ta sống bằng câu tụng nhật ấy xử thế, dầu tiến bộ hay không cũng bắt nguồn ở đó: Xẩy nhà ra thất nghiệp ca dao nhắn nhủ như thế. Người dân Việt không muốn xa quê. Sự biến chuyển lịch sử, dân Việt phải quên mình bồi đắp lịch sử dân tộc độc lập – thì cảnh ấy đã biến đổi tính tình, tác phong sống nhiều lắm. Ngọc Giao viết:

“...Thằng Đanh củng vào đầu em mắng: Vừa ăn bánh ban trưa ở hàng nước đã kêu đói, mày hư lắm.Giá còn ở nhà mà bị đánh như thế thì thằng Đa thụi ngay, nhưng ở lúc này nó chịu ngồi im, nghẻo đầu vào vai mẹ…”

Sự bở ngỡ, xẩy nhà ra thất nghiệp, đưa đến ý tưởng rời khỏi nhà sẵn trong đầu phải sống đất lạ quê người. Chúng ta đã thấy Tô Hoài viết về cảnh tượng này, với Ngọc Giao sống có căn bản, kinh nghiệm thôn quê, khác hẳn các nhà văn Việt Nam, khác gốc thành thị không mấy hiểu gì tâm tình dân quê và cảnh thôn trang. Dầu sao, tâm tưởng hình bóng quê hương ăn sâu vào tiềm thức, lúc cần dùng tới là có sẵn ngay. Thì trong văn chương Ngọc Giao tả quan niệm Xã Bèo nhận xét về quê người ra sao:

“...Chữ sợ lúc nào cũng gieo nặng vào lòng người khốn khổ này ở trong làng nơi chôn rau cắt rốn của họ, cũng như ngoài thiên hạ, mà họ cứ nghĩ một cách kinh hãi rằng: “đất khách quê người”.Bây giờ họ đang lưu lạc nơi đất khách quê người. Họ cứ yên chí chỉ có mái rơm dựng nên nền đất tổ, chỉ đồng ruộng bên lũy tre làng, họ đổ mồ hôi xuống mới là đất của họ, nhà của họ, còn thì đâu cũng là đất của người ta, những người mà họ phải sợ hãi và đâu cũng là đất của người ta, cái đất mà họ bước lên lạc lõng bơ vơ sợ sệt như là bước lên đất cát một xứ sở thế giới Tây Tàu quái lạ nào?...

Sự quên mình để bồi đắp cho độc lập dân tộc; bao giờ cũng là hy vọng, ở mai hậu. Nhưng óc thực tiễn dân quê Việt bao giờ cũng tính toán rất thực tế, Ngọc Giao giải thích cho chúng ta nghe:

“...Anh Xã Bèo bật que diêm nữa. Ánh lửa lòe soi chị Xã với hai đứa con, ngồi bó gối vào tường ngủ. Anh thở dài thương mẹ, thương vợ thương con, sót cả thân mình. Uất hận làm nóng đầu anh Xã, đang yên ổn làm ăn, tự nhiên bắn giết nhau nhắng cả lên, cả đất bây giờ cũng màn trời chiếu đất...”

Trong đám người tản dân ấy, không riêng Xã Bèo; còn nhiều giai tầng thứ bậc khác. Tác giả cho ta thông cảm tâm tư họ bỏ nhà bỏ cửa ra đi và bây giờ đến lượt những kẻ khác nghĩ gì:

“...Gặp một đám đông, Xã Bèo đi sát vào hỏi một cụ già đang hừng hực thở:

- Các cụ các ông các bà định chạy đến đâu, cho chúng cháu đi cùng với. Cứ đi nào đã biết đi đâu? Một anh con trai gánh nặng bước phăng phăng cười nói:

- Chỗ nào có gạo cơm thì đến. Các cụ cứ yên tâm thẳng tiến. Có người có ta cần gì. Khổ một chút rồi sướng như tiên…”

Cảnh chiếm đóng của Pháp, gái bị hiếp, trai bị bắt đi làm phu, cảnh khổ Cực của người dân nhược tiểu trong cơn xáo loạn; Ngọc Giao biểu hiện rất đúng, một trong ngàn triệu sự thật não lòng xẩy ra trên đất nước:

“...Cả làng ta, cả làng Hạ xô nhau nhẩy xuống đầm. Họ không bắn nữa, vẫy gọi lên. Rồi cũng phải lên run bần bật xếp hàng trên bờ đập mà van lạy như tế sao. Khổ mấy con gái làng ướt như chuột bị họ ghẹo, xương run bắn lên; trông đến thảm…”

Trên đường tản cư cùng với bác Xã, Lý Công thuộc thứ bậc nửa nông dân, nửa nho sinh. Chúng ta thấy Ngọc Giao tả lại cảnh học trò ra khỏi nhà, ăn uống lúc nhỏ thì bố mẹ chu cấp, lớn lên ở nhà quê phần nhiều có vợ lo liệu. Bây giờ chiến tranh lan tràn, phải rời nhà. Nay qua cầu chênh vênh:

“…Lý Công vốn nhát nhưng bị thúc cũng đành rở khóc rở mếu bước xuống cầu với gánh nặng trên vai ốm yếu. Chị vợ thương chồng níu lại:Thôi bố Lý để tôi gánh sang cho Bố nó không quen gánh, nhỡ đau quá mà đổi vai thì khốn…”

Anh Lý không nói gì, cứ bước, vợ không dám dằng co, sợ chồng té ngã. Anh Lý bắt chước lối men dò từng bước chắc như anh Xã vừa đi.Mọi người, nhất là chị Lý lại lo âu nhìn dán chặt vào mười ngón chân anh Lý bấm chặt xuống cầu tre kẽo kẹt rủ trên sông.

Anh đã đến giữa cầu, bỗng anh đứng lại, lảo đảo. Anh chóng mặt. Sông reo dưới cầu, sô cuốn rạt sang bờ và rỡn mạnh dòng xuôi. Anh chóng mặt. Chao ôi! Anh chóng mặt hơn là ngồi đu võng khi say rượu. Chị Lý không còn hồn vía thốt lên: “Bố làm sao thế kia? Khổ chưa giời đất ơi!” Bà cụ Xã và chị Xã cũng sợ xanh mặt nhưng không dám nói sợ Lý Công bối rối thêm. Anh men đến chỗ Lý Công đang đứng lảo đảo, mặt nhợt tái như là…”

Đã thưởng thức phiên chợ Trung du Ngô Tất Tố, bây giờ dưới mắt Ngọc Giao trong một phiên chợ miền núi Cao Bằng:

"... Đến chợ Bùng. Bọn Xã Bèo đổ gánh cạnh những gánh nứa tươi, người ta bày bán ngoài cửa chợ, bên đường cái. Chợ họp trên sườn núi. Cây cối bị chặt đi để dựng những hàng quán chạy liên tiếp ngổn ngang, đứng xa nhìn như bát úp.

Để bà cụ Xã, mụ bõ già và vợ Lý Công ở lại giữ gành gồng, vợ chồng Xã Bèo, Lý Công vỡi lũ trẻ lên xem chợ núi. Người tỉnh rất nhiều. Anh em thằng Đanh trố mắt ngắm những người mặc áo tây đội nón, mặc quần xách bị. Và những cô gái xinh tươi nhởn nhơ mua bán và ăn bún riêu sùm sụp, y như là anh em nó vẫn ăn như thế ở chợ Nôm làng mình, mà ở đây người ta gọi thân mật là anh em đồng bào dân tộc thiểu số. Những cô gái Thổ Mán, áo chàm, khuyên bạc đeo xà tích má đỏ hồng hồng, môi ăn trầu, cắn chỉ…” Ngọc Giao còn nêu lên sự quá khích của ông công an mà nhân dân tuy cố nhận thức đẹp đẽ là bạn dân? Nhưng cứ thực tế trả lời, đó là con hùm sắc móng vuốt, thi hành luật hành chính quá máy móc, quá nệ lập trường, làm cho dân kinh hồn thất đảm. Mặc áo chẳng may có ba thứ chỉ xanh, đỏ, trắng, hay ba mụn vá cùng màu trên, thật là thảm họa, bị vu cáo ngay là Việt gian. Giắt trâu ngoài đồng, trong khi mọi người đang chạy, ẩn núp là ra hiệu cho tàu bay bắn phá đồng bào. Lại được chứng kiến cảnh vu oan giá họa của công an:

“… Xã Bèo tới công an. Người ta dẫn anh đến một ngôi chùa không tượng bụt ở giữa cánh đồng khoai. Mọi người đứng ngoài chùa. Anh Xã theo hai người vác súng vào trong chùa. Anh đứng khép nép trước một cái bàn gỗ mộc, quanh bàn đó có năm sáu người ngồi rất nghiêm trang. Người vác súng trình rằng ban nãy giữa lúc có tàu bay đến thì họ trông thấy anh Xã chạy ra giữa ruộng vờ dắt trâu nhưng chính là vẫy tàu bay bắn.

- À thế thì ghê gớm nhỉ? Ông không biết rằng báo động thì ai cũng phải tìm chỗ lánh, nghĩa là không được đi đường, không được chạy giữa cánh đồng, không được vẫy nón, vẫy mù soa. Phạm tội ấy thì đích là Việt Gian..."

Ông làm người đọc phản ứng về thái độ người cầm súng vu cáo dân, nhưng ít ra còn tư cách tác phong được học tập, cách xưng hô, nói chuyện lễ độ. Thái độ hỗn xược, thiếu dân chủ, hống hách của cán bộ tiếp xúc làm nhục dân; hẳn báo hiệu chế độ suy sụp. Dân ít được tiếp xúc với cán bộ cao cấp để hiểu cái hay, cái đẹp; dân chỉ biết căn cứ vào tác phong cán bộ trực tiếp; rồi đánh giá trị qua chế độ hoặc tốt xấu. Âu cũng là thái độ biểu hiện đứng đắn của nhà văn dẫn đạo chính trị căn cứ bằng chứng thay đổi. Cảnh tản cư vợ chồng bác Lý Công đổi nghề, hết nghề lấy củi lại bán hàng quà. Tả lại vài nét đơn giản, khơi lên nhiều hình tượng sâu sắc cảnh sống tản cư 1946:

“…Chị Lý Công rụi lửa, bắc nồi canh bánh đa ra. Mấy hôm nay chị lại bán hàng quà xoay sỏa như hồi ở quê nhà. Chị làm quà ra chợ bán. Hôm thì cháo trai, cháo hến, hôm thì bánh rán, bánh trông trênh chưa phiên nào bị ế nhiều. Anh Lý vốn ngại làm và quen nằm cho vợ con nuôi…”

Gia đình Xã Bèo được cấp đất làm ruộng, được ở nhờ nhà ông chủ tịch Noọng. Và Xã Bèo được Ngọc Giao hồi sinh qua mấy dòng chữ tả anh yêu đất; sẵn sàng chết cho đất:

“… Vợ chồng anh Xã Bèo được chủ tịch Noọng rất mến. Ông ta luôn luôn nhắc Bèo có thiếu thốn đồ làm đất cứ lấy mà dùng, lại cho cả phân gio thóc giống…”

Tả tính người sơn cước như thế là đúng. Dân Việt Bắc quý trọng đồng bào xuôi, họ gọi là người Kinh. Có lẽ Ngọc Giao hiểu ít phong tục, ngôn ngữ Thái; Ngọc Giao cho chủ tịch tên Noọng, chẳng khác nào đặt cho Lý trưởng tên Gái.

Đoạn cuối Ngọc Giao tả rất cảm động. Con trâu bịnh hoạn Xã Bèo về hồi cư, và lúc về tề thì Pháp lại tịch thu trâu. Người dân đầu hàng Pháp được diễn tả bằng hình tượng cuộc đời tủi nhục. Nhiều cảnh Ngọc Giao đưa ra làm người đọc phẫn uất, căm hờn. Nhất là partisan (lính dõng) Pháp tịch thu trâu của Xã Bèo. Theo tác giả, sau Đất, sẽ viết về Xã Bèo, nhưng không thấy sách xuất bản.

Kết luận.

Ngọc Giao là nhà văn có tài. Văn biền ngẫu trong Cầu Sương điêu luyện; như giọng văn bay bướm của ông trong Quán Gió, Cô gái làng Sơn Hạ… Đất, tác phẩm nói lên được bối cảnh xáo loạn thời kỳ chiến tranh 1946. Nếu E.M. Remarque của Đức không nói lên ẩn ức khắc khoải chiến tranh trong văn chương, làm sao chúng ta hiểu thấu được nhục hình dân tộc Đức trong thời kỳ chiến đấu dưới chủ nghĩa Phát xít. Sự dã man chế độ độc tài khiến văn sĩ Đức Stephan Zweig phản đối rồi xa xứ. Cuối cùng đã cùng gia đình tự tử, sợ oan khiên Phát xít lan tràn theo chân đến Nam Mỹ.

Nói như thế, Ngọc Giao không phải là không ích lợi với tác phẩm khác. Song chỉ Đất mới là giá trị chính yếu của Ngọc Giao làm phong phú cho văn chương Việt Nam hậu chiến.



CÒN TIẾP ...

Trở lại : LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM - Kỳ thứ 14





© CẤM ĐĂNG TẢI LẠI NẾU KHÔNG CÓ SỰ ĐỒNG Ý CỦA TÁC GIẢ VÀ NEWVIETART .



TRANG CHÍNH TRANG THƠ ĐOẢN THIÊN TRUYỆN NGẮN NHẬN ĐỊNH