DOCTYPE HTML PUBLIC "-//W3C//DTD HTML 4.01 Transitional//EN"> NHẬN ĐỊNH
THƠ & NHẠC ĐOẢN VĂN TRUYỆN NGẮN BIÊN DỊCH HỘI HỌA ÂM NHẠC KỊCH NGHỆ ẤN PHẨM LIÊN KẾT


VIỆT VĂN MỚI
TÁC GIẢ & TÁC PHẨM


 
PHONG VẬN KỲ OAN
Thơ vịnh Kiều
của thi sĩ Nguyễn Đình Hoàng

M ùa khô năm nay (Bính Tuất 2006) gặp kỳ nước nổi, do triều cường đê bao ngạn phía đông thành phố lại bị vỡ đúng vào dịp Mừng Thiên Chúa giáng sinh. Đáp lời mời của ông bà Trần Thiện Hiệp - Lệ Hiền, từ Bình Qưới Tây tôi vượt ba cây cầu tới Bình Qưới Đông dự tiệc kỷ niệm lần thứ 46 ngày hai người giao sinh mạng cho nhau. Khách mời giới hạn mười mấy người trong tình thân văn mặc. Đôi uyên ương Hiền – Hiệp muốn dành ngân khoản để ứng cứu những người “đồng ấp” với anh chị ngoài Phan Thiết vừa qua bị “trời hành cơn bão mỗi năm” nên không huy hoắc như những lần trước. Tôi hân hạnh được cầm tay thi sĩ Nguyễn Đình Hoàng (NĐH).

“Văn kỳ thanh” NĐH đã lâu qua các văn thi hữu là những người mến phục tài thi nhân này: còn để cả tâm khảm vào Thuý Kiều qua PHONG VẬN KỲ OAN. Sự hiện diện của NĐH cho tôi “kiến kỳ hình” thi sĩ do hai nhà thơ Đoàn Văn Khánh và Bùi Bích Tâm giới thiệu. Rồi ngày 27.12.2006 Bùi thi sĩ đưa đến cho tôi bản thảo thi tập PHONG VẬN KỲ OAN.

Sự ưu ái và tin cậy của hai anh Đoàn, Bùi dành cho tôi thứ “cảo thơm Đặc biệt” này, cho tôi “lần giở trước đèn”cho mở mang kiến thức, cho đỡ cô lậu quả văn cứ trưng ra anh em bằng hữu.

Nguyễn Du tuyệt vời ở Tố Như thi nhưng lại bất tử ở ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH mà Tiếng Kêu Đứt Ruột ấy bao giờ cũng Mới. “Mới” cứ tân nhật tân ngay từ khi Nguyễn Du cho Kiều theo về Việt Nam qua Thi Văn Nhạc Họa.

Có nhiều bản dịch từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ. Chưa có ai dám khẳng định cho đến hôm nay đã có bao nhiêu bản dịch ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH. Bằng vào bản khắc gỗ nào đó có được để chuyển sang “quốc âm quốc ngữ” là “tự tin đó là bản chính chỉ ta mới có” rồi đặt tên cho công trình của mình như :

* Truyện Thuý Kiều: Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim

*Vương Thuý Kiều: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu

*Kim Tuý Tình Từ: Phạm Kim Chi

*… …. …. ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH còn được nhiều nhà tân học dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp … từ 1 hay 2 thế kỷ trước. Vài năm trước đây học giả Lê Cao Phan (nhà giáo, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ) đã được UNESCO chính thức nhờ ông dịch sang thơ Anh, thơ Pháp rồi tài trợ in ấn để quảng bá cho nhân loại thưởng thức một kiệt tác của văn học Việt Nam như một bức tranh vẽ bối cảnh xã hội qua không phải một thời kỳ mà là vô số kể các thời kỳ tiếp nối mải dài ra ở những mảnh đời đắng cay vì muốn sống đẹp.

Giá trị của Truyện Kiều (tên gọi tắt của ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH) đã được khẳng định từ lâu qua hàng ngàn bài viết, qua hàng vạn bài thơ Vịnh, thơ Nẩy, qua hàng trăm bài báo thương xác cho mãi đến hôm nay., cuối năm 2006 lại có cả việc tranh tụng tại ba tòa quan lớn như hai nhà Kiều học: Nguyễn Quảng Tuân và Đào Thái Tôn. Qua nhật báo Tuổi Trẻ số 341/2006 (4958) ngày 26.12.2006 và 342/2006 (4959) ngày 27.12.2006 thì được tòa Hà Nội ra phán quyết: ông Nguyễn Quảng Tuân (giáo viên trung học) thắng kiện, ông Đào Thái Tôn (Tiến sĩ, phó giáo sư Đại học) thua.

Thế là việc đáo tụng đình về văn học nghệ thuật đã có kết quả thắng thua chứ không còn cái vụ hòa giải rồi xử huề. Phải chăng, đây sẽ là tiền lệ để từ nay những đấng ưa cầm nhầm luộc sảng phải e dè.

Ôi! Thuý Kiều từ bên Tầu sang ta sao rộn chuyện. Nguyễn Du thương nàng ở cảnh:

* Thốn thổ thị lương điền, canh giá bất câu xuân hạ nhật

* Tứ gian giai ngã thác, tính tình hề dụng bắc nam nhân

Nghĩa:

* Tấc đất mà ruộng tốt,cấy cày không nề ngày Xuân hay ngày Hạ

* Bốn bên đều tay mở ( hăm hở !),tính tình không cứ người Bắc hay người Nam.

Đó là đôi câu đối của Nguyễn Du đề tặng dán ở cửa một Nhà Thổ khi đi sứ sang Tầu. Những chuyện học giả, học thật, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nhà chú giải, nhà soạn tự điển… qua Kiều để dương danh là chuyện của những đại gia văn học. Chúng tôi thô lậu quả văn thích Kiều, yêu mến Kiều nên kính trọng các bậc nho gia thi sĩ Tổng Vịnh Truyện Kiều.

Cuộc Tổng vịnh ở Dinh Tuần Phủ Hưng Yên do quan lớn đầu tỉnh Lê Hoan tổ chức, cụ Tam Nguyên Yên Đổ làm Tổng tài nên có đông đủ những danh nho Bắc hà phải vào cuộc trong không khí còn tanh mùi máu, còn khét lẹt mùi đạn bom đàn áp ở Bãi Sậy, Yên Thế. Ông nghè Phú Thị có gãi nhẹ vào lưng đại gia “cưỡi đầu người kể đã ba phen” ở nội dung bài vịnh Sở Khanh. Bậc “Đạt Nhân Quân Tử” đã về hưu đang làm gia sư tại tư dinh Kinh lược Bắc kỳ đổ quạu, có ngay lời phản bác ở hai câu thực: “Làng Nho người cũng trông ra vẻ / Tổ Bợm ai ngờ mắc phải tay”. Ông Nghè Phú Thị lại vô tình hay cố ý mà bồi lỗi bằng một chậu hoa tặng tiền bối để rồi được nhận hai bài Tạ Người Cho Hoa Trà và Ông Nghè Giấy có cái kết khôi hài: “Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe / Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi” Đồ thật? Đồ chơi? Đồ nào thật? Đồ nào giả? Hoặc mù thật hay giả vờ mù? Thì văn học giới đều biết cả. Họ lịch sự không nói ra thôi. Ông Nghè Chu không ngậm miệng ăn tiền kiểu “đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ” để thăng quan tiến tước, đành về hưu non rồi chào thua cuộc đời sớm hơn định cuộc.

Thơ vịnh Kiều từ đó là một phong trào cho những ai hiếu sự thích dùng chữ nghĩa để tự trào phúng thế. Hào khí vịnh Kiều để ký thác tâm sự luôn luôn là những viên ngọc sáng giá giữa bầu trời Vietnam mến yêu. Nhà thơ Nguyễn đình Hoàng đã tiến xa hơn tiền nhân ở khoản bứt phá khỏi thơ luật nọ niêm kia ràng buộc . Thi nhân này đã một mình tự vịnh gần 40 bài về cảnh tình của Kiều trong Tập Phong Vận Kỳ Oan để đối chứng với “thuyết” Tài Mệnh Tương Đố. Phong Vận Kỳ Oan là chữ rút trong bài Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du:

“Cổ kim hậu sự thiên nan vấn

Phong vận kỳ oan ngã tự cư”

Thật không ngờ NĐH cũng là hậu sinh như chúng tôi nhưng lại hiểu tường tận Nguyễn Du qua gia thề họ Nguyễn ở Tiên Điền như một Đại Gia Văn Học. Qua Tố Như Thi, và chỉ bằng vào truyện Kiều để nói lên tâm sự của mình ở đủ các thể loại thơ Mới, thơ Tự Do, thơ có vần điệu. Đọc thơ vịnh Kiều của NĐH tôi cảm nhận ông là nhà Nguyễn Du học của riêng tôi. Nguyễn thi sĩ đã khai từ :

“Cuốn sách ấy đóa hoa hồng trong tủ sách

Dòng thơ in trên trang giấy hoa tiên

Nhân vật nữ – Đoá hoa sầu bất tử

Khi người đời mãi mãi gọi tên”

(Phong Vận Kỳ Oan)

Chúng tôi vẫn quan niệm Đoạn Trường Tân Thanh là tiếng thét vang vọng cả đất trời sầu khổ. Nhưng NĐH lại nhẹ nhàng đi vào thực tại hơn:

“Tiếng hò nối đôi bờ kim cổ

Ngọn bút lông loang sấm chớp trăm miền

Nét vạch cháy ngang trời sóng vỗ

Đoá hoa sầu lấp lánh hạt mưa đêm”

( …… Ngã tự cư )

Chị em nhà Kiều đi thanh minh gặp mả Đạm Tiên “sè sè nấm đất bên đường” sau lời giải thích tường tận của cậu em Vương Quan mới nứt mắt ra mà cái gì cũng biết (?!) Kiều đã nức nở nhiều lời, khiến cô Thuý em phải lên tiếng:

“Vân rằng: chị cũng nực cười

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”

(Đoạn trường tân thanh)

Sự “vận vào khó nghe” rồi ra có thật … Đó là định mệnh hay sao? Trên đường về gặp gỡ Kim Trọng để làm nên mối tình tay ba khi tái hồi sau này. Mối tình sét đánh khiến Kiều nhi phải trèo tường qua nhà Kim Trọng để NĐH hôm nay cảm thương:

“Ngọn nến đang lụi dần trên áng sách

Đêm huyền ảo thẫn thờ

Đêm huyền ảo mông mênh

Đêm cuộc đời Kiều mở ra trên từng trang giấy”

Trang giấy nhạt nhoà

Trang giấy mong manh

Như thoáng gặp rồi ngàn trùng xa cách

( ….. Sang nhà Kim Trọng )

Sau những xướng họa, sau những bản đàn để Kiều ôm mộng lứa đôi rồi lại vượt tường trở về nhà với hy vọng thì Kim nhận được tin nhà từ Liêu Dương: “Xuân đường kíp gọi Kim về hộ tang”. Cảnh những ngày xa vắng, những khoảng trống đêm trường còn nóng hổi chờ mong:

“Tình yêu vừa trao gửi

Tin nhà đã đến nơi

Liêu Dương xa vời vợi

Tình yêu, tình yêu ơi”

(Tình cũng màu tang trắng)

Nguyễn Khuyến khi vịnh Kiều ở bài Kiều tự bán mình có câu đề và kết:

“… Thằng bán tơ kia giở thói ra

Làm cho bận đến cụ Viên già”

“… Có tiền việc ấy mà xong nhỉ

Đời trước làm quan cũng thế a?”

NĐH đã thấu thị hơn tiền nhân đã giải đáp được cái băn khoăn của Nguyễn Khuyến:

“Những thằng bán tơ

Và những gã đầu trâu mặt ngựa

Đời nào chẳng có

Chúng như cặp song sinh

Đen nhờ trắng

hiện hình

Tay nhám nhứa vung dây oan - dây oán

Tanh tưởi máu dân lành

Tiếng Nguyễn Du kêu lên thảng thốt

Kêu trời xanh

Và nguyền rủa trời xanh”

(Đen nhờ trắng)

Đen NHỜ trắng hiện hình! Chữ NHỜ đắc ý đắc cú! Chỉ những ai có căn cơ, có hàm chứa, có sở tồn mới có sở dụng cho nó “hiện hình”. Nó là ai? Nó là tập đoàn thống trị nhà Minh năm Gia Tĩnh bên Tầu cùng những râu ria cao thấp xa gần, những tư sản mại bản hạng bét là Môi-nhân, kẻ sống bằng môi mép giữa mua và bán đủ thứ từ quan chức tới chạy án đều phải có môi nhân làm trung gian. Cái giá của Trung Gian? Tuỳ theo vụ việc để nâng mua bớt bán sao cho có lợi.

Thiên kim tiểu thư Thuý Kiều mà ngả giá có ba trăm lạng! Thực giá của Kiếu là bao nhiêu? Còn nỗi đau nào khi Thuý Kiều không tự mang thân ra Thi Hoa Hậu mà bị “vạch lá tìm sâu” để:

“Một lũ tớ thầy

Sành sỏi

Trơ lì

Vô duyên

Trâng tráo…”

(Còn nỗi đau nào)

Ở đời có Kẻ Sĩ hay sao? Có Hiền Giả hay sao? Nếu có thì là ai? Của quý hiếmn muôn đời chả có ấy nên Kiều mới phải:

“Ngỡ ngàng tình chị duyên em

Lỡ làng lời hẹn con tim lịm rồi”

(Còn Em Một Tấm Lòng Xanh)

NĐH căm hận và khinh miệt bọn buôn người ở mọi góc độ, nhất là kinh doanh thân xác phụ nữ mà lại là đàn ông con trai; thi sĩ đã “tập Nguyễn Khuyến” chứ không “tập Kiều”, đã làm giảm giá giá trị những câu thơ hí lộng cả trần gian của mình:

“ Xênh xang giữa chợ buôn người

Lũ Tú ông

Cổ điển

Tân thời…”

(Lũ Tú Ông)

Lên án lũ Tú ông, NĐH cũng có nét nhìn “xưa cũ” ở Thương Hiệu Tú Bà. Tôi thiển nghĩ chưa chắc cái anh chàng họ SỞ đã đểu cáng cùng cực đến thế! Biết đâu có sự liên minh ma quỷ của Thuý Kiều và Sở Khanh thông mưu làm cao giá cho Tú bà đỡ ỉ eo hành hạ, cho lần gặp Thúc Sinh có kết quả tốt, cho lần gặp Từ Hải có kết quả tuyệt vời. Nếu như cuộc đời đã bị “thượng đế an bài” như thế thì phải sống như thế. Cứ phải sống như thế để tồn tại như Tú Xương tự hí họa mình để cảm thán:

“Vị Xuyên có Tú Xương

Dở dở lại ương ương

Cao lâu thường ăn quỵt

Thổ đĩ rặt chơi lường”

Vậy nho ta khác chi với nho tầu? Ai dám liệt Tú Xương vào hàng vô sỉ? Nho tầu Sở Khanh giúp Thuý Kiếu tự làm giá, dạy Thuý Kiếu biết cách dấn thân như kiểu “đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ” để chấp nhận số phận cho yên một bề. Bao nhiêu người bị tù tội, bị khảo tra đến thân tàn ma dại, bị lưu đầy, bị hy sinh cho Cần Vương cho Văn Thân. Tam Nguyên vẫn ngồi ghế tổng đốc Sơn Hưng Tuyên nhìn đất nước như thân phận cô Kiều “Đoạn Trường Thăm Thẳm Một Dòng Xuôi”.

Đoạn trường thăm thẳm lại có tương lai?

Kiều gặp Thúc Sinh một nhà buôn lớn có thế lực gọi trang trọng thì là Đại thương gia, Đại doanh thương… con rể quan Thượng thư nhiệm chức Tể tướng đương triều. Chắc Sở Khanh là người đầu tiên mừng cho Kiều được an phận. Ai ngờ họ Thúc lại:

“Như các quý tử con cái gia đình - quyền qúy

Trong thời đại chúng ta

Tiêu tiền bằng vé (1)

Thúc Sinh cũng ném tiền qua cửa sổ (2)

Để mua lấy những cuộc tình trăng gió

Của các cô nàng

móng đỏ

mắt xanh”

(Lại vẫn giọt mưa khuya)

Đen lẩn vào trong trắng! Trắng đen lẫn lộn . Gia đình trị mà cường quyền là chủ soái. Pháp lệnh được chế ra ở trong cửa các nhà quan lớn đâu chỉ có riêng nhà họ Hoạn:

“Hoạn Thư cũng không thể ngồi cao được nữa.

“Cũng phải gặp bọn khuyển ưng

Cũng bày trò đâm heo, thuốc chó

Bắt cóc

Đốt nhà

Giở đủ trò quỷ quái tinh ma

Con quỷ xã hội đen

Bỗng tru lên từng hồi,

điêu toa,

hắc ám”.

(Đen lẫn vào trong trắng)

Lấy Thúc Sinh được làm vợ bé hay gái bao? Cũng là an phận cho phần đời còn lại, đâu chỉ có hai người (Thúc – Thuý) nên:

“Đất cũng tối tăm

mờ mịt

hoang mang

Thúy Kiều đau thương

thổn thức

bàng hoàng”

(Những Mảng đen)

Lời than oán cho Căn Bệnh Ngàn Năm mang tính thời sự hôm nay gừi các hậu duệ Bạch Mi Thần mà NĐH bày tỏ với những Tú Ông còn nhất điểm lương tâm, còn một chút tự ái dân tộc hãy nhìn các em các cháu gái Việt vì đói khổ quá phải dấn thân để Đổi Đời, mong Lên Đời bằng cách qua Môi Nhân đi làm vợ khắp thiên hạ Đen, Vàng, Trắng, Đỏ.”Lên”cũng có đấy nhưng rất ít còn “xuống” thì rất nhiều. Nếu làm Thím Khách về Tàu Hoa lục hay Tầu Hoa Đảo… có khi phải làm vợ cho cả nhà cả họ của người “ bỏ tiền mua mâm phải đâm cho thủng”nên cha con anh em “sài chung”. Làm “Me Tây” thì bị lần lượt trao tay rồi cuối cùng bị bán vào động mãi dâm. Rất ít em cháu may mắn tìm về bản quán với cái bụng bầu hay vài đứa con nhỏ lai giống không quốc tịch !

Kiều may mắn chán khi “chài” được “họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông”vào Hoa Lục hành hiệp. Cái gật đầu tri kỷ đã mở cho Kiều một lối thoát, trước nhất là sự Báo Ân Báo Oán. Qua sự dùng lời đạt ý của NĐH những câu thơ là những tiếng nấc đẫm nước mắt. “Phúc hoạ lẽ nào là một cặp sinh đôi?”

Lần thứ nhì Kiều được có danh làm vợ, sau nửa năm hương lửa, người hùng dứt áo ra đi. NĐH có hai câu gói ghém tâm sự Kiều thật da diết:

“Nỗi nhớ nhà vẫn hiu hắt khôn khuây

Nhớ cánh chim hồng vẫn mịt mù bay”

(Sao Vẫn Mòn Mỏi Đợi)

“Một- lời- đã- biết- đến- ta / Muôn- chung- nghìn- tứ- cũng- là- co-ù nhau”. Lời hứa của khách anh hùng khi nghe Kiều nỉ non bên gối đã như dao chém đá để Nguyễn Du lộng bút và NĐH có ngay nhận định:

“Với lễ rước chầu vu quy trang trọng nhất (3)

(Những lễ nghi quân cách khác lệ thường)

Thì Từ công đã thật dạ quý yêu nàng

Say đắm,

vỗ về,

ân cần,

che chở”

(Vẫn nụ cười xưa)

Qua hai nhà thổ hạng sang là một bước lên bà, chỉ đủ trình độ để báo ân báo oán lũ xã hội đen hạ cấp cho riêng mình chứ không có ý hướng giành quyền sống cho chị em ta.

Còn ở tầm cao cả, Nguyễn Du và NĐH chỉ vẽ ra bối cảnh, vẫn chẳng có lối thoát cho những mảnh đời khốn khổ. Việc muôn năm vẫn:

“ Việc ấy lẽ thường

Có gì đâu bàn cãi”

(Mới Chỉ Rất Tượng Trưng)

Cùng ở vị thế Quan tòa, phiên xử trước của Tòa xã hội Trắng mà Đen thì can nhân Kiều không hề được hé răng lấy nửa lời. Phiên toà sau đổi vai giữa chánh án với bị cáo. Hoạn Thư được phép giãi bày:

“Rằng tôi chút phận đàn bà

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”

Phương ngôn Vietnam có câu “nói phải củ cải cũng nghe”. Phong độ của họ Hoạn dù thua cơ vẫn áp đảo được họ Vương. Năm 2002 nhà thơ Nguyễn Khắc Thiệu đã cho ấn hành thi tập có tên“Tâm sự của Hoạn Thư” dầy 200 trang khổ 12.5 X 20 cm. Nhà thơ Nguyễn Khắc Thiệu đã tìm tòi tra vấn đến cùng cái ghen của Hoạn Thư. Nay NĐH cũng xuống bút:

“Thôi thì phải giữ lấy nền

Tha là tha cả nỗi niềm riêng thôi

Thúy Kiều ơi – Thúy-Kiều ơi

Gặp nhau là đã tha rồi còn đâu”

(CƠN ĐAU MÃI ĐẾN BÂY GIỜ CHỬA THÔI)

Giấc mơ lên đời của Kiều thật tuyệt. Nhưng cảm nhận và trình độ của cô con gái nhà giầu xứ quê với Lý Tưởng Bở nên chẳng an phận như lời thầy bói phán “Anh hoa phát tiết ra ngoài / Ngàn thu bạc mệnh một đời tài hoa”. Đã tài hoa sao phải nhờ ông Nho Tầu họ Sở “làm giá”. Nếu thời không thay , thế không đổi thì mãn kiếp hay đời đời kiếp kiếp những phận người cứ chìm chìm nổi nổi như bèo theo nước , nước theo sông. Người đời cho Từ Hải là bậc anh hùng còn cụ Tú Hải Vân (thân phụ nhà văn Nguyễn Tuân) lại có đôi câu đối :

“Bốn biển anh hùng đều dại gái

Thập thành con đĩ đánh lừa quan”.

Đĩ đối với Quan như Nho đối với Xỏ. Sao mà cân xứng thế! Tổng đốc Hồ Tôn Hiến của Đại Minh Triều được Nguyễn Du cợt tả là : “Kinh luân gồm tài” khi đối chiến với Từ Hải trên chiến trường thì thua nhưng về mặt địch vận tâm lý chiến họ HỒ đã toàn thắng do khai thác được sự hiếu danh hám lợi của Từ phu nhân. Có lẽ do lòng ngữơng mộ Nguyễn Du nên thương Kiều mà NĐH đã thống trách họ Hồ là nguỵ quân tử mà lại nhẹ nhàng trách sự nhẹ dạ của Kiều:

“Tổng đốc khen thay mấy món lừa

Thúy Kiều phận mỏng một cành tơ

Phải chăng hám của thành cơ sự

Chẳng lẽ lời ngon đến nỗi ư?

Mười lăm năm lẻ đời luân lạc

Bảy nổi ba chìm chẵn ngất ngư

Chỉ muốn về thôi nên đến nỗi

Quả lừa trúng đậm giận còn nư”.

(QUẢ LỪA TRÚNG ĐẬM)

Giận còn nư! Quả lừa trúng đậm của họ HỒ khiến vợ giết chồng thì cổ kim hy hữu. Cuộc đời thực nếu xảy ra thì bao nhiêu người là Từ Hải. Cố thi sĩ Nguyễn Hải Phương khi còn thở cũng tranh hơi với vài người khảo luận về ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH đã nhẹ nhàng dạy dỗ tôi khi tôi lên án Từ Hải là công dân tu sĩ mà làm giặc lại cõng rắn cắn gà nhà. Trong bài viết Hồn tính dân tộc Việt Nam ông Phương bắt tôi đọc lại sử Việt tộc, đọc lại truyện Kiều để thấy rõ hơn trách nhiệm công dân của họ Từ.

Tôi ân hận vì lỗ mỗ khi Nguyễn Du đã khẳng định “Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông”. Nguyễn Hải Phương còn cảm thán: “người Tầu họ dụng mỹ nhân kế tài tình nhất nhân loại”.

Thế thì Kiều ngẫu nhiên bị lợi dụng hay là chuyên viên tình báo của nhà Minh hoạt động đơn tuyến đến thực thi quốc sách muôn đời của họ? Vì thế, Nguyễn Du dắt Kiều về Việt Nam để cảnh tỉnh những anh “râu hùm hàm én mày ngài” chớ có mê gái quá mức mà sự nghiệp tiêu tan. NĐH kính phục Nguyễn Du cũng nối thêm lời cảnh tỉnh:

“Khéo thay bút lực Nguyễn Du

Cái chết của Từ như tạc vào văn học

Cái chết mẫu của cuộc đời

Nỗi đau mấy trăm năm

Còn đọng ở đầu môi

Vị mặn chát vẫn cay chót lưỡi

(TA NGÃ VÀO THƠ VĂN)

Thảm cảnh của đôi kẻ gái Việt trai Tầu đã có Mỵ Châu Trọng Thuỷ, đã có Cù Thị làm nát tan cơ đồ nhà Triệu. Biết đâu Kiều chả là cái bóng của Cù Thị , Hồ tôn Hiến chả là cái bóng của An Quốc Thiếu Quý. Huân chương chiến công của Thuý Kiều không được đề cao, chỉ đề thấp họ Hồ: “Khéo khuyên lấy kế làm công”. Nếu cho Kiều là một thứ Tôn phu nhân quy Thục thì Kiều đã có quốc tịch Việt như Tôn phu nhân có quốc tịch Hán. Kiều đã là người đàn bà Việt Nam để “Tiếng đàn rơi rụng bên sông Tang”. Thi sĩ Nguyễn Hải Phương cảm nhận tiếng đàn Kiều khác cả Nguyễn Du và NĐH:

“So dây vào cuộc nổi chìm

Mới hay bạc mệnh săn tìm tài hoa

Mắt thơ chênh bóng trăng tà

Hồng nhan lạc bước canh gà cầu sương

Xe đời vô lại cầm cương

Rửa hờn đành cậy thước gươm chọc trời

Mười lăm năm cánh hoa trôi

Bến Tiền Đường bỗng gặp người tình xưa

Vật vờ vì mấy đường tơ

Cuốn dây từ ấy sao giờ còn ngân?

(Nguyễn Hải Phương)

Hồ Tôn Hiến – con người cơ trí hơn Từ Hải ở khoản tỉnh táo đề phòng”Hoa Độc”. Kiều là hình bóng của Trung Quốc Tứ Đại Mỹ Đồ hay là cái mỹ đồ thứ năm. Hành trạng của họ HỒ vốn không đẹp với người xưa và ngay cả đời nay: giết chồng người ta rồi lại cùng vợ “người ta” chăn gối. Mượn bữa tiệc hay lợi dụng bữa tiệc mừng chiến thắng khao quân để cho con lợn lòng ụt ịt. Thoả mãn xong, Hồ quên ngay lời hứa. Kiều tủi thân vì bị cú lừa khi thống hối thì “oan thác chàng ơi đất cũng đau”. Đất đau mặc đất, Kiều vẫn sống! Chỉ có Hồ Tôn Hiến là được cả chì lẫn chài:

“Canh khuya ngủ với vợ thù

Sáng ra gả vội thổ tù được ngay

Khen cho chùi mép đã tài

Ngón chơi tàn nhẫn chẳng ai sánh bằng

(Kinh Luân Thực Đã Nên Rằng)

Từ Hải đã có nửa sơn hà để nghênh ngang chỉ tiếc chưa xưng đế hiệu. Nếu như họ Từ cũng bắt chước họ Lưu họ Hạng thì Kiều đã là Lã Hậu hay Ngu Cơ. Kiều tự hạ giá mình để mong “Tái Hồi Kim Trọng” như một điềm báo trước nên đã khuyên chồng “bó thân về với triều đình” để rồi nay lại phải làm vợ một viên thổ quan. Một quan chức địa phương chắc cỡ Tri Châu hay Huyện Lệnh. Cái giá cuối cùng ấy “bèo quá!” Nên Kiều đành ngậm đắng nuốt cay lao đầu xuống sông Tiền Đường như mộng triệu từ mười lăm năm trước do Đạm Tiên mách bảo. Cuộc sống đã vô cùng khó khăn nhưng không muốn sống nữa cũng đâu có dễ. Sư cô Giác Duyên phối hợp với đạo cô Tam Hợp chờ sẵn cuối dòng để đón Kiều. Kiều lại “tái sanh” vì “còn nhiều phúc phận về sau”. Gia đình họ Vương giờ đây đã là gia đình quan lại, Vương viên ngoại không còn là ông già trọc phú nhà quê nữa mà đã là thân phụ và nhạc phụ của hai vị quan chức: Vương Quan và Kim Trọng.

Cái khoản tái hồi Kim Trọng phải chi không nên có. Đã Tài Mệnh Tương Đố thì muôn đời vẫn đối chọi nhau. Ai đó thêm vào cho có Hậu để chấm dứt cuộc tương tranh giữa Tài và Mệnh cho Kiều thêm bẽ bàng:

“Cuộc tái hợp nửa vời thôi

Mà tình sâu

Mà nghĩa nặng

Như giọt sương mai còn đọng đầu cành

(RỰC RỠ MÃI XUÂN XANH)

Trăng nghiêng. Nghiêng cả hồn nhau. NĐH khai triển cái đuôi Tái Hồi thật chí tình. Cái Đẹp thời nay đề cao lên hàng Mỹ Học, nhất là cái đẹp của phụ nữ. Một vưu vật cao giá như Kiều thì Mã-Giám-Sở-Từ-Hồ mê là phải. Nay, NĐH cũng mê Kiều tới bến :

“Vì em hai chữ kinh quyền

Với ta em vẫn trinh nguyên thuở nào

(Trăng nghiêng. Nghiêng cả hồn nhau)

Khổng Tử bảo: “Nhạc là cái vui của thánh nhân mà có thể khiến cho dân trở nên tốt lành, có thể cảm hoá lòng người và di dịch phong tục”. Nhạc trong Đoạn Trường Tân Thanh đạt những gì? Chắc là không! Vì tiếng đàn của Kiều có thể “cảm” nhưng chưa “hoá” được lòng người. Tiếng đàn chỉ gây hung hoạ:

* lần đầu cho Kim nghe: Kim gặp tang chế.

* cho Từ nghe: Từ mềm lòng để rồi mất mạng

* cho Hồ nghe: Hồ vẫn trơ trơ

Tức là không hoá nổi cái tên họ Hồ gian manh tàn độc, chẳng dịch chuyển được phong tục và lần chót đàn cho Kim Trọng nghe trong ngày tái hợp xong là “cuốn dây từ đấy về sau xin chừa”.

Nhưng NĐH chưa cho chừa vì ông đã nghe “Còn Vẳng Ngàn Sau Tiếng Đàn”. Những kẻ lòng lành đều vô cảm như Thuý Vân chỉ biết hưởng thụ, như Hoạn Thư mực thước trong nếp sống gia đình quyền quý , như Đạo Cô Tam Hợp , Sư Cô Giác Duyên cũng có lòng lành “mỗi người mỗi vẻ”.

NĐH đã vào cuộc bằng thơ mời mọi người cùng kiến giải Thuyết Tài Mệnh Tương Đố:

“U uẩn hồn hoa

Một khúc đoạn trường”

(Kẻ Lòng Lành)

Thơ lục bát là thể thơ thuần Việt. Người làm lục bát hôm qua, hôm nay và ngày mai mà có những bài đắc ý chắc chắn là có pha chút ca dao hay chút Kiều trong đó. Cố thi sĩ Bàng Bá Lân có hai câu thơ để đời:

“Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”.

Nhưng có người lại bảo đó là hai câu Ca Dao đã có từ lâu. Việc của các Tiền bối chữ nghĩa, chúng ta không nên phê phán. Nguyễn Du “chuyển ngữ” Kiều sang thơ Lục Bát bằng hồn Ca Dao. Chúng ta làm thơ Lục Bát bằng hồn Nguyễn Du. Đó là sự thật. Nguyễn đình Hoàng cũng được thân mẫu đưa vào giấc ngủ Thiên Thần bằng thơ Kiều, khi dùng lời đạt ý lại là thơ Tự Do :

“Khói ấm xanh xao nóc nhà

Vươn nhẹ trong chiều

Vươn nhẹ trong mơ

Mẹ vỗ vào lưng con

Con mơ màng

Con cất cánh bay xa

(Nỗi đau….. những vần thơ )

Từ khi biết đọc tôi không gọi thơ Thất Ngôn là thơ Đường. Thể thơ 7 chữ dù 4 câu (tứ cú) và 8 câu (bát cú ) hay dài hơn ( Trường Thiên)vẫn là thơ Vietnam hoàn toàn, không dính dấp gì đến Nhà Đại Đường (Lịch sử ) hay Đường Thi ( Văn hoá). Ông Nguyễn đình Hòang lại có quan niệm khác :

“Khi cha ngâm thơ Kiều

Thơ Kiều hoá Đường Thi”

Người đời cả mấy chục thế hệ nay đã mượn cái bóng của Nguyễn Du để dương danh, để trấn áp nhau ở mọi khía cạnh. Chắc chắn là ít người như Nguyễn đình Hoàng nhớ Nguyễn Du thiệt tình và luôn Cho Ngàn Sao Thương Khóc Mãi Nguyễn Du. Nhà văn Thế Phong khi đang viết sách phê bình văn học thấy văn học giới ồn ào về Nguyễn Du liền nổi hứng “tối tác” ngay ra bài thơ : “Cho Thuê Nguyễn Du” thật dài, làm nhiều anh chị nóng mặt.

@

Nhà thơ Nguyễn đình Hoàng đã Vịnh Kiều tuỳ hứng ở thể cách đặt nhưng tiêu đề rất dài cho mỗi bài thơ. Thi sỹ còn cẩn trọng dẫn Kiều để đối chứng. Những cảnh đời và những mảnh đời trong Truyện và ngoài đời sao lại giống nhau như anh chị em song sinh. Trước Nguyễn Du là Nguyễn Gia Thiều đã cảm thán :

Lò cừ nung nấu sụ đời

Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương

( Cung oán Ngâm khúc)

Mây chó cứ bay lửng lờ khắp trời, người cứ tang thương chật đất. Những Đoạn Trường Tân Thanh là tiếng thét đau buồn đến đứt ruột nhân gian. Nguyễn đình Hoàng hoà tiếng thét ấy một “Hơi Thở Mới”. Đó là nét Mới rất Mới trong họ ngoài làng hôm nay.

Bình Qưới tây. Trọng đông. Bính Tuất



 


THƠ & NHẠC ĐOẢN VĂN TRUYỆN NGẮN BIÊN DỊCH HỘI HỌA ÂM NHẠC KỊCH NGHỆ ẤN PHẨM LIÊN KẾT